TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 151/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 370/2019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 366/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị H, sinh năm 1991 (Có mặt)
Địa chỉ: Ấp G, xã G, huyện T, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Anh Trần Phước L (C), sinh năm 1986 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp N, xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Huỳnh Thị H trình bày: Vào năm 2017, chị và anh Trần Phước L tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 23/02/2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Về sau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh L ghen tuông vô cớ rồi đánh đập chị nhiều lần. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2019 đến nay. Do xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh L.
Về con chung: Chị và anh L có 01 con chung là cháu Trần Công V, sinh ngày 15/6/2017, hiện nay đang sống với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu V. Chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết.
Bị đơn anh Trần Phước L đã được tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời anh đến tòa tham dự các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và dự phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng anh vắng mặt không có lý do nên không có lời khai cũng như không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của chị H.
Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị H đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh L không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H về việc xin ly hôn đối với anh Trần Phước L. Về con chung: Giao cháu Trần Công V cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Huỳnh Thị H yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh Trần Phước L; địa chỉ: Ấp N, xã M, huyện G, tỉnh Bến Tre. Theo xác nhận của Công an xã M thể hiện anh L có đăng ký thường trú tại địa chỉ nêu trên nhưng không có mặt tại địa phương. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh ngày 07/10/2019 thì ông Trần Văn S là cha anh L cho biết anh L đi đi về về chứ không có cắt hộ khẩu đi luôn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh Trần Phước L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại tòa không có lý do. Do đó, tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh L là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung: Anh L vắng mặt tại tòa không có lý do thì xem như anh đã tự tước bỏ quyền được chứng minh, trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H và phải chịu hậu quả pháp lý của việc vắng mặt đó. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận lời khai và tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như các chứng cứ đã thu thập được để làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án là phù hợp.
[2.1] Về hôn nhân: Theo chị H trình bày thì chị và anh L kết hôn vào năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện G và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 23/02/2018 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Đến đầu năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh L thường hay ghen tuông, đánh đập chị nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2019 đến nay. Xét thấy, Tòa án đã tiến hành hòa giải để chị H, anh L đoàn tụ nhưng anh L không đến đã chứng tỏ anh không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị H. Chị H và anh L không còn chung sống với nhau, vợ chồng đã sống ly thân, mỗi người có một cuộc sống riêng. Tại tòa chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn với anh L, không muốn vợ chồng đoàn tụ. Như vậy, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh L đã mâu thuẩn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh L là phù hợp.
[2.2] Về con chung: Theo chị H trình bày và hồ sơ vụ án thể hiện chị và anh L có 01 con chung là cháu Trần Công V, sinh ngày 15/6/2017. Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình thì cháu V dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ nuôi dưỡng. Hơn nữa, cháu V hiện nay đang sống với chị H. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích về mọi mặt của con, đảm bảo sự phát triển bình thường tránh làm xáo trộn cuộc sống hiện nay của cháu. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H giao cháu V cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82, 83 của của Luật hôn nhân và gia đình thì chị H có quyền yêu cầu anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị H tự nguyện không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết. Đối với anh L vắng mặt không có ý kiến nên Tòa án không xem xét giải quyết. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện khác.
[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị H phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp.
[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Các Điều 147, khoản 3 Điều 228, 273, 278 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị H đối với anh Trần Phước L.
Chị Huỳnh Thị H được ly hôn với anh Trần Phước L.
2. Về con chung: Giao cháu Trần Công V, sinh ngày 15/6/2017 cho chị Huỳnh Thị H trực tiếp trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị H tự nguyện không yêu cầu.
Anh L được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số: 0007336 ngày 30/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.
Quyền kháng cáo, kháng nghị: Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 151/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 151/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về