Bản án 151/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

 BẢN ÁN 151/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 245/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 245/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 166/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Bé E , sinh năm 1991.

Cư trú tại: ấp Bến Bào, xã Q, huyện Đ , tỉnh C . (có mặt)

- Bị đơn: Anh Lê Văn G , sinh năm 1980.

Cư trú tại: ấp Bến Bào, xã Q , huyện Đ , tỉnh C . (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 17/5/2019 trong qúa trình giải quyết và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Bé E trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Lê Văn G tổ chức đám cưới vào năm 2011, hôn nhân tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, nhưng về sau xảy ra nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình thân tộc hai bên hòa giải nhiều lần, nhưng vợ chồng không khắc phục được và hiện nay vợ chồng đã ly thân hơn 01 năm. Từ đó tình cảm giữa chị với anh Ghê không còn gắn bó, thương yêu nhau, mỗi người có cuộc sống riêng, không ai có trách nhiệm với ai.

Nay chị xét thấy tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh G .

Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Lê Hoàng Q, sinh ngày 20/11/2011 và Lê Hoàng K, sinh ngày 01/02/2013. Hiện cháu Q đang sống cùng anh G và cháu K đang sống cùng chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu K; giao cháu Q cho anh G nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ người khác và người khác nợ lại: Chị xác định không có.

Đối với bị đơn Lê Văn G : Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh G theo quy định pháp luật, nhưng anh G không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị E.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Lê Văn Glà bị đơn trong vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi tiến hành cấp, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ đến Tòa án để tham gia tố tụng, nhưng anh G vắng mặt không có lý do, nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh G .

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Bé E và anh Lê Văn G tổ chức đám cưới vào năm 2011, hôn nhân tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn và đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định, nên quan hệ hôn nhân của anh chị không có giá trị pháp lý theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Trong quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, nhưng về sau xảy ra nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình thân tộc hai bên hòa giải nhiều lần, nhưng vợ chồng không khắc phục được và hiện nay vợ chồng đã ly thân hơn 01 năm. Từ đó tình cảm giữa chị với anh G không còn gắn bó, thương yêu nhau, mỗi người có cuộc sống riêng, không ai có trách nhiệm với ai. Nay chị E yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh G. Do chị E và anh G không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình không công nhận chị E và anh G là vợ chồng.

[3] Về nuôi con chung: Tên Lê Hoàng Q, sinh ngày 20/11/2011 và Lê Hoàng K, sinh ngày 01/02/2013. Hiện cháu Q đang sống cùng anh Ghê và cháu K đang sống cùng chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu K ; giao cháu Q cho anh G nuôi dưỡng, cấp dưỡng không đặt ra. Hội đồng xét xử thấy rằng, tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định “vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vong của con”. Viện dẫn từ điều luật trên, xét thấy từ khi anh chị ly thân đến này cháu K do chị E trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng ổn định, cháu Q đang được anh G nuôi dưỡng. Để không làm ảnh hưởng môi trương sống của cháu K và Q , cũng như cần phải có sự trông nom, chăm sóc trực tiếp thường xuyên của cha hoặc mẹ nuôi dưỡng, giáo dục, đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của cháu. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu K và Q. Do đó, cần giao cháu K cho chị Em tiếp tục nuôi dưỡng và cháu Quận cho anh G nuôi dưỡng. Anh G và chị E có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cấp dưỡng nuôi con chị E không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.

[4] Về chia tài sản: Chị E và anh G tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về nợ người khác và người khác nợ lại: Chị E xác định không có.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định: Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, chị E phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 và khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Bé E và anh Lê Văn G .

2. Về nuôi con chung: Giao Lê Hoàng Q , sinh ngày 20/11/2011 cho anh G trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Giao cháu Lê Hoàng K, sinh ngày 01/02/2013 cho chị E trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh Lê Văn G và chị Nguyễn Bé E có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cấp dưỡng nuôi con chị E và anh G không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.

3. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị E phải chịu 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0009426 ngày 17/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị E đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Chị E có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh G có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:151/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về