TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 151/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/09/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 03 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 132/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2989/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 3289/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đồng Thị A, sinh năm 1991; nơi cư trú: Thôn 5 B, xã C, huyện D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Anh Đặng Văn E, sinh năm 1985; nơi ĐKHKTT: Thôn 5 B, xã C, huyện D, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Hàn Quốc; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn nộp ngày 29/5/2019 và các văn bản khác, nguyên đơn là chị Đồng Thị A trình bày: Chị A và anh Đặng Văn E kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện D, thành phố Hải Phòng ngày 15 tháng 12 năm 2010. Sau khi kết hôn, chị A và anh E chung sống cùng gia đình anh E tại thôn B, xã C, huyện D, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn. Đến tháng 01/2018, anh E sang Hàn Quốc bằng đường du lịch rồi trốn ở lại từ đó cho đến nay chưa quay trở về. Hiện anh E đang cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc và cũng không biết đến thời điểm nào mới về Việt Nam. Kể từ sau khi anh E sang Hàn Quốc sinh sống, giữa chị A và bố mẹ anh E phát sinh nhiều mâu thuẫn không khắc phục được nên từ tháng 3 năm 2019 chị A đã về nhà bố mẹ đẻ ở. Thời gian đầu khi anh E sang Hàn Quốc, chị A và anh E vẫn liên lạc nhưng từ đầu năm 2019 cho đến nay giữa chị A và anh E phát sinh mâu thuẫn do anh E nghe theo bố mẹ đẻ, không còn tin tưởng chị A. Hiện anh E cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc nên chị A không biết địa chỉ cụ thể. Chị A có đặt vấn đề ly hôn, anh E đồng ý nhưng không gửi giấy tờ về. Nay nhận thấy tình cảm đối với anh E không còn, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị Tòa án cho chị A được ly hôn với anh E để ổn định cuộc sống.
Về quan hệ nuôi con chung: Quá trình chung sống, chị A và anh E có một con chung là Đặng Hoàng G, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2011. Ly hôn chị A có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung cho đến khi trưởng thành. Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết về tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Về quan hệ tài sản chung: Chị A trình bày quá trình chung sống không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Chị A giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn; giữ nguyên lời trình bày tại bản tự khai đề nghị Tòa án giải quyết cho chị A được ly hôn với anh E; được nuôi con chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Mâu thuẫn giữa chị A và anh E đã sâu sắc, không còn khả năng khắc phục nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A; về quan hệ nuôi con chung: Xử giao con chung là Đặng Hoàng G, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2011 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con chung và quan hệ tài sản chung do chị A không yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về thủ tục tố tụng:
[1] Quan hệ tranh chấp của vụ án về việc ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 và điểm b khoản 1 Điều 39, điểm e khoản 1 Điều 192, Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
[2] Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa của Tòa án cho anh E; đồng thời tống đạt các văn bản nêu trên cho gia đình anh E, gia đình anh E cho biết đã thông báo lại nội dung văn bản cho anh E nhưng anh E không gửi văn bản ý kiến về. Tại phiên tòa, anh E vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do; việc vắng mặt của anh E thuộc trường hợp bị đơn cố ý giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh E theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về yêu cầu của đương sự:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị A và anh E kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện D, thành phố Hải Phòng ngày 15 tháng 12 năm 2010 nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nhưng vẫn khắc phục được. Nhưng kể từ sau khi anh E đi du lịch sang Hàn Quốc rồi cư trú bất hợp pháp tại đó thì quan hệ giữa chị A và bố mẹ đẻ anh E phát sinh nhiều mâu thuẫn; quan hệ vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng căng thẳng. Nguyên nhân chính là do anh E không còn tin tưởng vào sự chung thủy của chị A. Chị A cũng không còn tin tưởng vào anh E. Hiện tại, anh E sinh sống tại Hàn Quốc, vẫn thường xuyên liên lạc với bố mẹ đẻ của anh E qua điện thoại. Bố mẹ đẻ của anh E cũng đã thông tin cho anh E biết hiện Tòa án đang giải quyết việc ly hôn nhưng anh E không gửi văn bản thể hiện quan điểm về việc này. Bố mẹ đẻ anh E không biết địa chỉ cụ thể của anh E tại Hàn Quốc do anh E thuộc diện cư trú bất hợp pháp và cũng không xác định được đến thời điểm nào anh E mới về Việt Nam, nay chị A có yêu cầu ly hôn thì tùy chị A quyết định. Từ đầu năm 2019, do mâu thuẫn nên chị A và anh E không còn liên lạc, quan tâm đến nhau. Nay chị A có yêu cầu ly hôn với anh E để ổn định cuộc sống, Hội đồng xét xử thấy rằng, yêu cầu của chị A phù hợp với tình trạng gia đình, mối quan hệ giữa chị A, anh E và phù hợp với quy định tại Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận.
[4] Về quan hệ nuôi con chung: Quá trình chung sống chị A và anh E có một con chung là Đặng Hoàng G, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2011. Hiện con chung đang được chị A trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ly hôn, nguyện vọng của chị A là được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị A về việc nuôi con chung là phù hợp với điều kiện thực tế của các bên đương sự, phù hợp với nguyện vọng của con chung Đặng Hoàng G, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của con chung và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, chị A không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết. Anh E có quyền thăm nom con, chị A không được cản trở anh E thực hiện quyền này - Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
[5] Về quan hệ tài sản chung: Chị A trình bày quá trình chung sống không có tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.
- Về án phí sơ thẩm:
[6] Chị A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật - Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình;
Căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đồng Thị A:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đồng Thị A được ly hôn với anh Đặng Văn E.
2. Về quan hệ nuôi con chung: Xử giao con chung là Đặng Hoàng G, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2011 cho chị Đồng Thị A được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, chị Đồng Thị A không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.
Anh Đặng Văn E có quyền thăm nom con, chị Đồng Thị A không được cản trở anh Đặng Văn E thực hiện quyền này. Anh Đặng Văn E không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về quan hệ tài sản chung: Chị Đồng Thị A xác nhận không có tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.
4. Về án phí sơ thẩm: Chị Đồng Thị A phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng ) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0001878 ngày 17/6/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Chị Đồng Thị A đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, chị Đồng Thị A có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật, anh Đặng Văn E có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Bản án 151/2019/HNGĐ-ST ngày 03/09/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 151/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về