TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N – TP CẦN THƠ
BẢN ÁN 150/2020/HSST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 10 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 155/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 527/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
LÊ PHẠM VI B, sinh năm 1990, tại: Hậu Giang. Giới tính: Nam HKTT: Khu vực 2, phường T, thị xã L, tỉnh Hậu Giang.
Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn B1 (c) và bà Phạm Ngọc H (c).
Tiền sự, tiền án: Không.
Nhân thân: Ngày 10/8/2015, bị Công an quận T, thành phố Cần Thơ xử phạt hành chính bằng phạt tiền 7.500.000 đồng về hành vi “Kinh doanh hàng cấm (thuốc lá)”. Đã nộp xong.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 27/5/2020, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 01 giờ 45 phút ngày 27/5/2020, Công an phường An Bình nhận được tin báo của quần chúng về việc có đối tượng nam đi xe mô tô biển số 65B2-073.75 có biểu hiện nghi vấn vận chuyển trái phép chất ma túy trên đường T, phường A, quận N. Lực lượng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận N kết hợp với Công an phường An Bình tiến hành tuần tra trên tuyến đường T thuộc phường An Bình, quận N khi đến trước địa chỉ số 266C/8 đường T thì phát hiện Lê Phạm Vi B đang điều khiển xe mô tô biển số 65B2-073.75 nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Khi nhìn thấy lực lượng Công an, B ném 01 gói giấy bên trong có 01 nỏ thủy tinh chứa tinh thể không màu xuống đường nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật, gồm:
- 01 nỏ thủy tinh bên trong chứa tinh thể không màu (được quấn giấy vệ sinh bên ngoài được thu giữ trên nền đường);
- 01 cây kéo; 01 quẹt gas; 02 đoạn ống nhựa cắt nhọn một đầu; 01 chai gas mini;
- 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đỏ;
- 01 xe mô tô hiệu Nouvo màu xanh trắng đen, biển số 65B2-073.75 (Bút lục 01, 21, 22).
Tại Kết luận giám định số: 204/KL-PC09 ngày 03/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ, kết luận: Mẫu tinh thể không màu thu giữ bên trong nỏ thủy tinh gửi giám định, được niêm phong có chữ ký của Lê Phạm Vi B là ma túy, khối lượng 0,1147gam, loại Methamphetamine. (Bút lục 27) Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Lê Phạm Vi B thừa nhận: bản thân có sử dụng ma túy đá. Vào khoảng 01 giờ ngày 27/5/2020, bị cáo đến gặp với một đối tượng (không rõ họ tên) ở ngang Bệnh viện P, phường A mua 01 gói ma túy đá với giá 300.000đồng. Mua được ma túy, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 65B2-073.75 đi vào một hẻm trên đường T để ma túy vào nỏ, sử dụng được một ít, số còn lại trong nỏ bị cáo gói vào giấy vệ sinh cất giấy trong túi quần dự tính mang về L, tỉnh Hậu Giang tiếp tục sử dụng. Khi đi đến trước địa chỉ 266C/8 đường T, phường A thì thấy lực lượng Công an tuần tra đi tới nên sợ và vứt gói giấy vệ sinh chứa nỏ có ma túy xuống đường thì bị lực lượng Công an tuần tra phát hiện, kiểm tra thu giữ tang vật và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang (bút lục 36-37; 40-54).
Đối với đối tượng bán ma túy cho B do bị cáo khai không rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
Đối với xe mô tô biển số 65B2-073.75 đã làm rõ do anh Khưu Thanh T đứng tên chủ sở hữu, anh T bán lại cho người khác năm 2019. Bị cáo mua lại của 01 người không rõ họ tên trên trang “Chợ Tốt” với giá 3.700.000đồng. Ngày 27/5/2020, bị cáo sử dụng xe này để vận chuyển trái phép chất ma túy thì bị bắt.
Tại bản cáo trạng số 156/CT - VKS ngày 18 tháng 8 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân quận N đã truy tố Lê Phạm Vi B về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa :
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Lê Phạm Vi B về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” đã được nêu trong Cáo trạng, đại diện Viện kiểm sát cho rằng bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và cộng đồng nhưng vẫn cố tình thực hiện, do vậy, hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý bằng hình phạt tù mới đủ sức răn đe, giáo dục. Đại diện Viện kiểm sát phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tuyên phạt bị cáo mứa án từ 02 năm – 02 năm 06 tháng tù giam.
Về xử lý vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý theo quy định của pháp luật.
Phía bị cáo: Thừa nhận bản thân có sử dụng ma túy, không có tranh luận gì đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét mức án khoan hồng để sớm được trở về hòa nhập cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với kết luận điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang và các tài liệu khác đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, chứng minh được: Vào lúc 01 giờ 45 phút ngày 27/5/2020, Lê Phạm Vi B điều khiển xe mô tô biển số 65B2-073.75 vận chuyển số ma túy có trọng lượng 0,1147 gam, loại Methamphetamine. Đây là số ma túy B mua của một đối tượng không rõ họ tên ở ngang Bệnh viện P, phường A, quận N. Chất ma túy mà bị cáo vận chuyển theo người khi bị bắt quả tang là chất độc hại có trong danh sách được ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018 ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định về danh mục chất ma túy và tiền chất. Do vậy hành vi này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự. Điều này cho thấy Cáo trạng truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Từ ma túy mà rất nhiều các tệ nạn xã hội, các loại tội phạm khác đã nảy sinh. Nhà nước đã có nhiều chính sách tuyên truyền, cảnh tỉnh về loại tội phạm này bằng nhiều hình thức. Bị cáo biết tác hại của ma túy đối với bản thân và cộng đồng, biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Do vậy, hành vi này cần phải xử lý nghiêm bằng hình phạt tù, nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, để bị cáo phấn đấu tu dưỡng bản thân, sống biết đặt mình trong khuôn khổ của pháp luật.
[3] Các tình tiết về nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng.
[4] Về tang vật của vụ án:
- Gói niêm phong số 204/KL – PC09 ngày 03/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự có chữ ký ghi tên bị cáo Lê Phạm Vi B là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
- Kéo; quẹt gas; đoạn ống nhựa; chai gas mini là công cụ dùng để sử dụng ma túy, cần tịch thu tiêu hủy.
- Xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Nouvo màu xanh trắng đen, biển số 65B2-073.75, số máy: 22S2006051, số khung: RLCN22S207Y006051, đã qua sử dụng, là phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước - Điện thoại di động hiệu Itel màu đỏ, imei: 354791091556064 đã qua sử dụng, là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cho bị cáo được nhận lại.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
* Tuyên bố : Lê Phạm Vi B phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
* Áp dụng:
điểm c khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt:
Lê Phạm Vi B: 02 năm tù giam.
Thời hạn phạt tù tính từ ngày 27/5/2020
Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) Gói niêm phong số 204/KL – PC09 ngày 03/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự có chữ ký ghi tên bị cáo Lê Phạm Vi B.
+ 01 cây kéo; 01 quẹt gas; 02 đoạn ống nhựa cắt nhọn một đầu; 01 chai gas mini;
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Nouvo mà xanh trắng đen, biển số 65B2-073.75, số máy: 22S2006051, số khung: RLCN22S207Y006051, đã qua sử dụng.
- Bị cáo được nhận lại: 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đỏ, imei: 354791091556064, đã qua sử dụng.
Án phí hình sự sơ thẩm : Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).
- Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 150/2020/HSST ngày 10/09/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 150/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về