Bản án 150/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HD – TỈNH HD

BẢN ÁN 150/2019/HS-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại Phòng xử án - Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 142/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Quý H (tên gọi khác: X), sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Số 21 Đền Mẫu, phường PNL, thành phố HD, tỉnh HD.

Chỗ ở trọ: Số 5/60/293 Tân Kim, phường TB, thành phố HD, tỉnh HD; Nghề nghiệp: Lao động tự do: Trình độ văn hóa: 9/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam: Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Bùi Quý B, sinh năm 1945 (đã chết) và Đỗ Thị Nh, sinh năm 1954;

Tiền án: Bản án số 140 ngày 27/9/2016 của Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt 27 tháng về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ra trại ngày 08/7/2018 chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không;

Nhân thân:

+ Quyết định số 15 ngày 14/4/2007 của Công an phường NT, thành phố HD xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 200.000đ về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Quyết định số 68 ngày 26/02/2010 của Công an thành phố HD xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 350.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản. Nộp phạt ngày 26/02/2010.

+ Bản án số 23 ngày 25/01/2008 của Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 950.000đ). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/6/2008.

+ Bản án số 212 ngày 18/11/2008 của Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt 15 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân và tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 1.830.000đ). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/9/2009.

+ Bản án số số 259 ngày 21/12/2010 của Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 1.750.000đ). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/6/2011. Nộp án phí ngày 24/9/2012.

+ Bản án 15 ngày 16/02/2012 của Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 4.290.000đ), bồi thường trách nhiệm dân sự số tiền 2.580.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/8/2012, nộp án phí ngày 20/5/2013. Các bị hại không có đơn yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự.

+ Bản án số 183 ngày 02/10/2012 của Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 1.125.000đ). Nộp án phí ngày 20/5/2013. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/6/2013.

Bị tạm giữ từ ngày 5/6/2019, chuyển tạm giam từ ngày 07/6/2019 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh HD. Có mặt tại phiên tòa.

Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

+ Anh Trần Anh T, sinh năm 1974, vắng mặt.

Nơi cư trú: Khu 12, phường TB, TP. HD, tỉnh HD.

+ Anh Lê Đăng Đ, sinh năm 1978,vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn PL, xã ND, thành phố HD, tỉnh HD.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10h15’ ngày 05/6/2019 tại trước cổng Công ty TNHH một thành viên điện lực HD ở số 33 Đại lộ Hồ Chí Minh, phường NT, thành phố HD, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố HD bắt quả tang Bùi Quý H (tức X) đang cất giấu 01 túi nilon màu đen đựng 01 gói giấy màu xanh, kích thước (1,5x1,5)cm bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. H khai nhận là Heroine cất giấu để sử dụng. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của anh Trần Anh T ở khu 2, phường TB và anh Lê Đăng Đ ở thôn Phú Lương, xã ND, thành phố HD.

Quá trình điều tra đó làm rõ: Bùi Quý H (tức X) là người nghiện chất ma túy (chích Heroine). Khoảng 09h30’ ngày 05/6/2019 Hùng điều khiển xe đạp điện màu đỏ đen (mượn của mẹ đẻ là bà Đỗ Thị Nh) đến cống Tân Kim, phường TB, thành phố HD. Tại đây, H gặp bạn tên T (không rõ họ, địa chỉ) T đưa cho H 500.000đ bảo H mua Heroine về cùng sử dụng. H đồng ý, cầm tiền đi đến ngõ 64 phố An Ninh, phường QT, thành phố HD mua được 01 gói Heroine với số tiền 500.000đ của một người đàn ông (không rõ họ tên và địa chỉ) rồi cầm ở tay trái đi về chỗ T đứng đợi. Khoảng 10h15’ cùng ngày khi H đi đến trước cổng Công ty TNHH một thành viên điện lực HD ở số 33 Đại lộ Hồ Chí Minh, phường NT, thành phố HD thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố HD kiểm tra. H đã thả gói Heroine xuống dưới đất, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD thu giữ ngay vị trí H đứng 01 túi nilon màu đen đựng 01 gói giấy màu xanh, kích thước (1,5x1,5)cm bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng và 01 chiếc xe đạp điện màu đỏ đen trước sự chứng kiến của các anh Trần Anh T và Lê Đăng Đ .

Tại Kết luận giám định số 229/KLGĐ-PC09 ngày 07/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HD kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Bùi Quý H, gửi đến giám định có khối lượng là 0,311 gam là ma túy, loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục I, STT 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Về vật chứng: Đối với 0,250 gam Heroine hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì số 229/KLGĐ- PC09 đang được quản lý tại kho vật chứng của Công an thành phố Hải Dương chờ xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với chiếc xe đạp điện màu đỏ đen, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Đỗ Thị Nh .

Tại bản cáo trạng số 143/VKS-HS ngày 27/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, tỉnh HD truy tố Bùi Quý H (X) về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Quý H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, xác định Viện Kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như bản cáo trạng đã nêu là đúng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, tỉnh HD thực hành quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Quý H (X) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

Về điều luật: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 (tái phạm); điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Quý H (X) từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/6/2019.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp;

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy đối với 0,250 gam Heroine hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì số 229/KLGĐ- PC09 là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai, mong Tòa giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về căn cứ định tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo: Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ và cơ sở kết luận: Khoảng 10h15’ ngày 05/6/2019 tại trước cổng Công ty TNHH một thành viên điện lực Hải Dương ở số 33 Đại lộ Hồ Chí Minh, phường NT, thành phố HD, Bùi Quý H (tức X) đang cất giấu trái phép 0,311 gam Heroine để sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố HD phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là trái pháp luật nX vì ham chơi muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố bị cáo về tội danh và điều luật tại bản cáo trạng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi cố ý đã gây ra và phải chịu một hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có nhân thân xấu nhiều lần bị kết án nX không lấy đó làm bài học để quyết tâm từ bỏ ma túy mà lại tiếp tục tìm mua ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn ham muốn của bản thân chứng tỏ bị cáo là đối tượng khó cải tạo coi thường pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo bị kết án chưa được xóa án tích nay lại phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ”Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng, không nhằm mục đích vụ lợi, hơn nữa xét bị cáo không có nghề nghiệp và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,250 gam Heroine hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành cần tịch thu cho tiêu hủy là phù hợp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với bà Đỗ Thị Nh cho H mượn xe nX không biết H sử dụng vào việc phạm tội; không làm rõ được người bán trái phép chất ma túy cho H và người đưa tiền để H mua ma túy nên không có căn cứ xử lý.

[8] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (tái phạm), Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Quý H (tên gọi khác X) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Quý H (tên gọi khác X) 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/6/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 0,250 gam Heroine hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì số 229/KLGĐ-PC09 Công an tỉnh HD là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành (Tình trạng vật chứng, chủng loại, số lượng, trọng lượng, đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/9/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố HD và Chi cục thi hành án dân sự thành phố HD).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Quý H (tên gọi khác X) phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 150/2019/HS-ST ngày 26/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:150/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về