TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 149/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 156/2021/TLST-HNGĐ ngày 12/3/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/4/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 110/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07/5/2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1991.
- Bị đơn: Anh Trịnh Hoàng C, sinh năm 1989.
Cùng địa chỉ: Ấp Đ, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Nguyên đơn có mặt. Bị đơn vắng mặt không rõ lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 12/3/2021 và lời trình bày của nguyên đơn có tại hồ sơ và tại phiên tòa, thể hiện: Vào năm 2012 chị N và anh C được 02 bên gia đình tổ chức đám cưới với nhau, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K vào ngày 25/12/2012 (Giấy chứng nhận kết hôn số: 196/2012). Thời kỳ hôn nhân có 01 con chung tên Trịnh Nhật D, sinh 15/8/2013.
Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng tự thỏa thuận.
Nguyên nhân mâu thuẫn: Chị N xác định do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cải với nhau, làm cho đời sống hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không C hạnh phúc.
Chị N yêu cầu ly hôn với anh C; về con chung yêu cầu được nuôi, yêu cầu anh C cấp dưỡng cho con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt theo quy định của pháp luật (chị N xác định anh C hiện nay làm nghề bốc vác cát đá thu nhập từ 06 triệu đến 07 triệu/tháng, nhưng không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh thu nhập ổn định thực tế của anh C); về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
- Đối với bị đơn: Tòa án đã triệu tập hợp lệ 02 lần để tham gia phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và 02 lần để xét xử, nhưng bị đơn đều vắng mặt không rõ lý do, nên không ghi nhận được ý kiến.
- Tại biên bản ghi ý kiến của con chưa thành niên ngày 22/4/2021 có tại hồ sơ, thể hiện: Cháu D có nguyện vọng được sống với chị N khi chị N và anh C ly hôn.
Từ những nội dung vụ án thể hiện;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét về quyền khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện bị đơn về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con và bị đơn có nơi cư trú tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết vụ án dân sự “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét về thủ tục: Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Xét yêu cầu và ý kiến của đương sự:
[3.1] Về yêu cầu ly hôn: Mối quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh C được xác lập trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên mối quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống hôn nhân nếu muốn có được hạnh phúc dài lâu và đạt được mục đích thì vợ chồng phải bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, đồng thời phải biết thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau. Nhưng chị N và anh C không làm được đều đó, mà chỉ vì quan điểm sống cá nhân của mỗi bên dẫn đến cuộc sống vợ chồng thường xuyên cự cải với nhau, làm cho mối quan hệ hôn nhân lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án đã triệu tập anh C hai lần để tham gia hòa giải nhưng anh C đều không đến và cũng không có ý kiến hay cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị N, nên có căn cứ xác định anh C không C quan tâm gì đối với mối quan hệ hôn nhân này, đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị N cương quyết yêu cầu ly hôn với anh C, do đó xác định chị N và anh C đã vi phạm Nêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng dẫn đến các hệ lụy nêu trên, nếu tiếp tục D trì mối quan hệ hôn nhân về sau thì sẽ không đảm bảo hạnh phúc và trái với các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình hiện nay, nên cần chấp nhận cho chị N được ly hôn với anh C là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. (Giấy chứng nhận kết hôn số: 196/2012 ngày 25/12/2012 của UBND xã K hết hiệu lực kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật).
[3.2] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con:
- Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: Xét thấy cháu Trịnh Nhật D đã từ đủ 07 tuổi trở lên và sau khi ghi nhận ý kiến thì cháu có nguyện vọng được sống với chị N và chị N không thuộc trường hợp không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dạy con, do đó cần giao cho chị N trực tiếp nuôi dạy là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, anh C có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống với chị N, nếu anh C lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh C về việc cấp dưỡng cho con. Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình, quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”, con chung được giao cho chị N trực tiếp nuôi dạy, do đó cần buộc anh C cấp dưỡng cho cháu D là phù hợp; đối với mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng, theo hướng dẫn tại khoản 2, mục III Công văn số: 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì mức cấp dưỡng tối thiểu không dưới ½ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử đối với 01 người con, mức lương cơ sở hiện nay là 1.490.000 đồng; quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị N không chứng minh được thu nhập thực tế hiện nay của anh C là bao nhiêu nên không có cơ sở để xem xét mức cấp dưỡng cho con mỗi tháng 2.000.000 đồng theo yêu cầu của chị N, mà cần xem xét mức cấp dưỡng phù hợp theo quy định của pháp luật bởi lẽ việc cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ chung của cả cha và mẹ chứ không riêng cá nhân ai, do đó Hội đồng xét xử cân nhắc quyết định buộc anh C cấp dưỡng cho con mỗi tháng 1.000.000 đồng và phương thức cấp dưỡng thực hiện hàng tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm là phù hợp theo quy định tại Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình.
[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N cho rằng tài sản chung và nợ chung tự thỏa thuận, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh C về vấn đề tài sản chung và nợ chung, nên chưa có căn cứ làm rõ phần tài sản chung và nợ chung giữa chị N và anh C. Do đó, cần tách phần tài sản chung và nợ chung ra, trường hợp sau này giữa các đương sự có tranh chấp và có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.
[4] Xét về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng, anh C phải chịu án phí cấp dưỡng cho con là 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chị N đã dự nộp tiền tạm ứng án phí trước 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu đối trừ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 186, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị N.
- Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị N ly hôn với anh Trịnh Hoàng C.
Giấy chứng nhận kết hôn số: 196/2012 ngày 25/12/2012 của UBND xã K hết hiệu lực kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.
- Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: Giao cho chị N trực tiếp nuôi dạy cháu Trịnh Nhật D, sinh 15/8/2013. Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, anh C có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống với chị N, nếu anh C lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Anh C phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Trịnh Nhật D, sinh 15/8/2013 mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt theo quy định của pháp luật. Phương thức cấp dưỡng 01 tháng cấp dưỡng 01 lần, thời gian cấp dưỡng tính kể từ ngày 25/5/2021. Khi có lý do chính đáng và có yêu cầu thì mức cấp dưỡng có thể thay đổi.
Kể từ ngày chị N có đơn yêu cầu thi hành án mà anh C chậm thực hiện nghĩa vụ đối với khoản tiền cấp dưỡng nói trên, thì hàng tháng anh C C phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với khoản tiền cấp dưỡng nói trên tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải nộp án phí ly hôn là 300.000 đồng, chị N đã dự nộp tạm ứng án phí trước 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0004734 ngày 12/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu đối trừ. Anh C phải nộp án phí cấp dưỡng cho con là 300.000 đồng.
3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 149/2021/HNGĐ-ST ngày 25/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 149/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về