TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1482/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 23/10/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 161/2017/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2017 về vụ việc tranh chấp ly hôn.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4595/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Minh L, sinh năm: 1980 Địa chỉ: 69/28 Đường C, Phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạm trú: 430 W St, Freeport Texas 77541-5732 USA.
Bị đơn: Ông A Sviatoslav, sinh năm: 1978 Quốc tịch: Ukraine Địa chỉ: Z 31-38 Ukraine.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khời kiện và Bản tự khai của bà L đã được chứng nhận chữ ký tại Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Hiu-xtơn, Hoa Kỳ của bà Trần Minh L:
Ngày 30 tháng 6 năm 2010, bà và ông A Sviatoslav đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, vào sổ đăng ký số 2467 quyển số 09 ngày 08 tháng 7 năm 2010. Sau khi kết hôn, bà và ông A Sviatoslav chung sống được 01 tháng tại địa chỉ 69/28 Đường C, Phường M, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó ông A Sviatoslav trở về Ukraine sinh sống và làm việc còn bà thì vẫn tiếp tục công việc của mình trên tàu du lịch.
Bà và ông A Sviatoslav gặp nhau là rất khó khăn vì đều làm việc trên tàu và chỉ gặp nhau khi kết thúc hợp đồng làm việc. Thời gian gặp nhau thì ít mà khoảng cách xa nhau thì nhiều nên tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn phát sinh do bất đồng về ngôn ngữ và văn hóa lối sống. Bà và ông A Sviatoslav không có thời gian ngồi lại với nhau để giải quyết mâu thuẫn nên bà đề nghị được ly hôn với ông A Sviatoslav để ổn định cuộc sống của mình.
Về con chung: Có 01 con chung là A Sviatoslav T, sinh ngày 24/02/2012, giới tính: Nam. Hiện tại trẻ đang sống với bà tại Hoa Kỳ và bà đề nghị là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc con chung đến khi trưởng thành, bà không yêu cầu ông A Sviatoslav cấp dưỡng nuôi con chung.
Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết Nợ chung: Không có.
Tòa án không thể tiến hành hòa giải đoàn tụ được vì ông A Sviatoslav đang cư trú tại Cộng hòa U-crai-na (Ukraine).
Tại phiên tòa sơ thẩm, Bà Trần Minh L có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt đã được chứng nhận chữ ký tại Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Hiu-xtơn, Hoa Kỳ ngày 28/3/2018.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với các đương sự vắng mặt, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của bà Trần Minh L, cho bà L được ly hôn với ông A Sviatoslav. Con chung: Giao trẻ A Sviatoslav T, sinh ngày 24/02/2012, giới tính: Nam cho bà Trần Minh L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung của ông A Sviatoslav. Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:
Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Bà Trần Minh L đang cư trú tại nước ngoài có đơn xin ly hôn với ông A Sviatoslav; Quốc tịch: Ukraine hiện đang cư ngụ sinh sống tại Cộng hòa U-crai- na (Ukraine). Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 37, Điều 40 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà Trần Minh L tham gia phiên tòa vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 23/10/2018 nhưng bà L có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt ngày 28/3/2018.
Đối với ông A Sviatoslav, sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp hợp lệ Thông báo về việc thụ lý, ngày mở phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa xét xử vụ án dân sự sơ thẩm cho ông A Sviatoslav tại địa chỉ: Z 31-38 Ukraine.
Ngày 01/9/2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp hợp lệ gửi Văn bản thông báo về việc thụ lý, ngày mở phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa xét xử vụ án dân sự sơ thẩm số 386/UTTPDS- TA30 cho ông A Sviatoslav. Theo nội dung Thông báo nêu trên thì thời gian mở phiên tòa sơ thẩm xét xử lần 1 vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 14/6/2018; Trong trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự do bị đơn vắng mặt mà không có đơn xin vắng mặt, không có đơn xin hoãn phiên tòa nhưng có đã có văn bản trình bày ý kiến kèm theo tài liệu, chứng cứ thì phiên tòa lần 2 sẽ được mở lại vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 11/7/2018; Trong trường hợp phải hoãn phiên tòa theo qui định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự do Tòa án không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của bị đơn cư trú ở nước ngoài thì phiên tòa lần 2 sẽ được mở lại vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 23/10/2018.
Ngày 06/11/2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận được Văn bản số 1465/CH-BTP ngày 06/10/2017 về việc Bộ Tư pháp đã gửi hồ sơ ủy thác tư pháp đến Bộ Tư pháp Cộng hòa U-crai-na (Ukraine) để thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự đối với đương sự A Sviatoslav hiện đang cư trú tại Cộng hòa U-crai-na (Ukraine).
Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không nhận được lời khai, tài liệu, chứng cứ của ông A Sviatoslav; Đến ngày mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ông A Sviatoslav không có mặt, cũng không có văn bản trả lời, không có đơn xin xét xử vắng mặt được cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa U-crai-na (Ukraine) xác nhận chữ ký hoặc hợp pháp hóa lãnh sự.
Ngày 19/6/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có gửi Công văn số 3419/TATP-TGĐVNCTN gửi Bộ Tư pháp với nội dung đề nghị Bộ Tư pháp thông báo kết quả ủy thác tư pháp đối với ông A Sviatoslav, sinh năm 1978, quốc tịch Ukraine có địa chỉ tại Z 31-38 Ukraine. Tuy nhiên, đến ngày xét xử sơ thẩm vụ án trên, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chưa nhận được công văn trả lời từ Bộ Tư pháp về kết quả thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp đối với ông A Sviatoslav và ông A Sviatoslav cũng vắng mặt.
Căn cứ Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Khoản 4 và Khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
Xét yêu cầu ly hôn của bà Trần Minh L có đủ căn cứ để xác định:
- Quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Minh L và ông A Sviatoslav, vào sổ đăng ký kết hôn số 2467 quyển số 09 ngày 08/7/2010 thì quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông A Sviatoslav là hôn nhân hợp pháp.
Theo như bà L trình bày, trong khoảng thời gian chung sống cùng nhau thì chỉ có khoảng thời gian đầu là hạnh phúc, về sau thì phát sinh mâu thuẫn về quan điểm và lối sống hàng ngày. Bà và ông A Sviatoslav gặp nhau là rất khó khăn vì đều làm việc trên tàu và chỉ gặp nhau khi kết thúc hợp đồng làm việc. Thời gian gặp nhau thì ít mà khoảng cách xa nhau thì nhiều nên tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn phát sinh do bất đồng về ngôn ngữ và văn hóa lối sống. Bà và ông A Sviatoslav không có thời gian ngồi lại với nhau để giải quyết mâu thuẫn nên tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt không thể gàn gắn được nên bà đã tự chấm dứt hôn nhân với ông A Sviatoslav vì mâu thuẫn vợ chồng không giải quyết được, hoàn cảnh mỗi người mỗi nơi lại không có cơ hội đoàn tụ gia đình.
Về phía ông A Sviatoslav, Tòa án đã tiến hành ủy thác tư pháp cho ông theo đúng thủ tục luật định nhưng ông A Sviatoslav không hồi báo. Điều này cũng chứng tỏ ông A Sviatoslav không quan tâm đến cuộc hôn nhân này nữa. Xét thấy mục đích hôn nhân chỉ có thể đạt được khi vợ chồng thương yêu, quan tâm, chăm sóc nhau, cùng chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống. Do đó bà Trần Minh L đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn đối với ông A Sviatoslav là có căn cứ chấp nhận để tạo điều kiện cho các bên ổn định cuộc sống riêng sau này.
Con chung: Có 01 con chung là trẻ A Sviatoslav T, sinh ngày 24/02/2012, giới tính: Nam. Hiện nay, trẻ A Sviatoslav T đang sống cùng bà Trần Minh L tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Bà L đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến khi trưởng thành và không yêu cầu ông A Sviatoslav phải cấp dưỡng nuôi con chung. Để đảm bảo quyền lợi cho trẻ phát triển toàn diện, không làm xáo trộn cuộc sống của trẻ nên giao trẻ A Sviatoslav T cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Do ông A Sviatoslav không có lời khai hay tài liệu chứng cứ về việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung gửi cho Tòa án về vụ việc ly hôn nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung của ông A Sviatoslav theo quy định của pháp luật.
Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.
-Về án phí dân sự sơ thẩm bà Trần Minh L phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 28, Điều 37, Điều 40, Điều 147, Điều 273, Điều 277, Điều 278, Điều 477 và Điều 479 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Minh L.
Quan hệ hôn nhân: Bà Trần Minh L được ly hôn với ông A Sviatoslav.
Con chung: Có 01 con chung là trẻ A Sviatoslav T, sinh ngày 24/02/2012;
Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam.
Giao con chung là trẻ A Sviatoslav T, sinh ngày 24/02/2012 cho bà Trần Minh L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông A Sviatoslav.
Ông A Sviatoslav được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không được ai cản trở.
Vì quyền và lợi ích của con chung, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Minh L chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) được cấn trừ vào Biên lai thu tạm ứng án phí số 0033954 ngày 04/4/2017 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Án xử công khai sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bà Trần Minh L nhận tống đạt hợp lệ bản án. Đối với ông A Sviatoslav thời hạn kháng cáo bản án là 12 tháng kể từ ngày tuyên án.
Bản án 1482/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 1482/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về