Bản án 148/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 148/2020/HS-ST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 159/2020/TLST - HSST ngày 07/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 163/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị T, Sinh năm 1985; ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Ngọc C, xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Hữu L; Con bà: Đồng Thị P; Chồng: Đỗ Tiến D (đã ly hôn). Có 05 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2017. Theo danh chỉ bản số 461 ngày 14/7/2020 do Công an huyện Sóc Sơn - TP.Hà Nội lập thì bị cáo có 03 tiền án:

+ Tại bản án số 65/HSST ngày 17/10/2016, TAND tỉnh Thái Nguyên xử phạt 16 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Ngày 07/11/2017, TAND cấp cao tại Hà Nội ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 305/HSPT do Nguyễn Thị T rút đơn kháng cáo (Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 11/5/2016). Chưa chấp hành án.

+ Tại bản án số 36/HSST ngày 25/7/2017, TAND tỉnh Vĩnh Phúc xử 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 26/12/2016). Chưa chấp hành án.

+ Tại bản án số 36/HSST ngày 29/3/2018, TAND thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh phúc xử 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 30/11/2017. Chưa chấp hành án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 13/7/2020 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13h40’ ngày 05/3/2020, Tổ công tác Công an huyện Sóc Sơn kiểm tra quán Karaoke G, tại Khối X, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội phát hiện tại phòng Vip 8 có một số đối tượng có hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, gồm Nguyễn Thị G; Nguyễn Thị Hoài T1; Hoàng Văn B; Bùi Văn R; Bùi Văn Đ; Đỗ Tràng H; Phan Hồng N; Hà Anh Q. Quá trình kiểm tra, tổ công tác thu giữ được nhiều tang vật là ma túy các loại, trong đó, tạm giữ của Bùi Văn R 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng.

Quá trình điều tra làm rõ:Sáng 05/3/2020, Nguyễn Thị T rủ Đỗ Tràng H, Nguyễn Thị Hoài T, Bùi Văn Đ đến quán Karaoke G ở Khối X, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn để sử dụng ma túy, tất cả đồng ý. Sau đó, Bùi Văn Đ rủ thêm Bùi Văn R và Phan Hồng N; N rủ thêm Hà Anh Q và Nguyễn Thị G. Khi tất cả đến quán thì cả nhóm vào phòng vip 08. Tại đây, T lấy ma túy “kẹo” chia cho mọi người để sử dụng. Tiếp đó, T đưa cho Rừng 01 túi ma túy chứa tinh thể màu trắng là Ketamin để “xào”, Rừng đổ 1/2 túi ra đĩa xào cho mọi người sử dụng, số còn lại R để trên thành ghế. Khi các đối tượng đang sử dụng thì lần lượt có thêm Hoàng Văn B, Phan Hồng N, Hà Anh Q, Nguyễn Thị G đến và T lấy ma túy “kẹo” cho tất cả cùng sử dụng. Cả nhóm sử dụng ma túy đến khoảng 13h50’ cùng ngày thì Cơ quan Công an kiểm tra, tạm giữ tang vật, lúc này T đã bỏ về trước nên không bị bắt giữ.

Tại Kết luận giám định số 1929 ngày 13 tháng 3 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng tạm giữ của Bùi Văn R là Ketamine, có khối lượng 1,129 gam.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị T không đến Cơ quan điều tra trình diện, bỏ trốn khỏi địa phương dẫn đến việc Cơ quan CSĐT - Công an huyện Sóc Sơn phải ra Quyết định truy nã. Ngày 13/7/2020, T bị bắt theo Quyết định truy nã.

Đối với các đối tượng có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy gồm Hoàng Văn B, Nguyễn Thị G, Bùi Văn R, Nguyễn Thị Hoài T: Ngày 30/6/2020, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn đã xét xử và tuyên phạt Nguyễn Thị G 06 năm 06 tháng tù, Bùi Văn R 22 tháng tù, Hoàng Văn B 28 tháng tù, Nguyễn Thị Hoài T 20 tháng tù, hiện bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Quá trình điều tra, Hoàng Văn B khai nhận mua ma túy của Nguyễn Thị T. Tuy nhiên, T không thừa nhận bán ma túy cho B. Ngoài lời khai của B thì không còn tài liệu nào khác chứng minh nên không đủ căn cứ để xử lý T về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Thị T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại bản Cáo trạng số:153/CT – VKS ngày 30/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn đã truy tố Nguyễn Thị T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm q khoản 2 Điều 249Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi đánh giá chứng cứ, tính chất vụ án, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, kết luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm q khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 56 Bộ luật hình sự:

Phạt: - Nguyễn Thị T mức án từ 5 năm 6 tháng tù đến 6 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam.

Về tang vật chứng: Đã được xử lý tại bản án số 78/2020/HSST ngày 30.6.2010 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn.

Trả lại bị cáo 01 thẻ căn cước công dân và 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn; Điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đều là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản thu giữ vật chứng, các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ. Do đó có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 05.3.2020, tại quán Karaoke G tại Khối X, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội, Nguyễn Thị T có hành vi tàng trữ 01 gói nilon bên trong chứa ma túy loại Ketamine và đưa cho Bùi Văn R sử dụng ½ gói, còn lại ½ gói có trọng lượng 1,129gam Bùi Văn R cất giấu trên thành ghế phòng hát của quán Karaoke G. Đối với Bùi Văn R đã bị xử phạt 22 tháng tù tại Bản án số 78/2020/HSST ngày 30.6.2020 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn. Hành vi cất giấu ma túy của Nguyễn Thị T để nhằm mục đích sử dụng đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại bản án số 36/2018/HSST ngày 29.3.2018 của TAND thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm” theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999, bản án bị cáo vẫn chưa chấp hành. Vì vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung quy định tại điểm q Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, tệ nạn ma tuý không những tàn phá kinh tế gia đình, làm tha hoá con người, đe doạ giống nòi mà còn là nguyên nhân gây ra các tội phạm nguy hiểm khác. Do đó, việc truy tố bị cáo ra trước pháp luật là cần thiết và cần phải có một mức án phù hợp tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến tính chất vụ án, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Bộ luật hình sự quy định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn gây khó khăn cho việc điều tra, Cơ quan điều tra đã phải ra Lệnh truy nã thể hiện việc bị cáo coi thường pháp luật nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thu nhập thấp và không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đã được xử lý tại Bản án số 78/HSST ngày 30.6.2020 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn.

Đối với 01 thể căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị T và 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo. Xét thấy không phải là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội nên trả cho lại bị cáo.

 [6] Về tổng hợp hình phạt của các bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo: Bản án số 36/HSST ngày 29.3.2018 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp phần hình phạt chưa chấp hành của Bản án số 65/HSST ngày 17.10.2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên và Bản án số 36/HSST ngày 25.7.2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc là 25 năm 11 tháng 18 ngày, buộc bị cáo Nguyễn Thị T phải chấp hành hình phạt chung của cả 03 bản án. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giam tạm giữ cho bị cáo.Do bản án này đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị cáo vẫn chưa đi thi hành án. Vì vậy khi xét xử Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Bị cáo bị truy tố, xét xử theo quy định tại điểm q Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm. Khi tổng hợp hình phạt thì mức án của bị cáo cao hơn 30 năm tù. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự khi tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm q khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự.

- Điều 135; Điều 326; Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Thị T 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp phần hình phạt chưa chấp hành của Bản án số 36/HSST ngày 29.3.2018 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là 28 năm 11 tháng 18 ngày. Buộc bị cáo Nguyễn Thị T phải chấp hành hình phạt chung là 30 (Ba mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13.7.2020. (Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam của 02 bản án: Bản án số 65/2016/HSST ngày 17/10/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên từ ngày 11/5/2016 đến 14/5/2016 và Bản án số 36/HSST ngày 25.7.2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày 26/12/2016 đến 02/1/2017.) Trả lại bị cáo 01 thể căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị T và 01 điện thoại di động. (Tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Sóc Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn).

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:148/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về