TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 148/2020/HS-PT NGÀY 01/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01/7/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 127/2020/TLPT-HS, ngày 01 tháng 6 năm 2020, đối với bị cáo Nguyễn Minh N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 82/2020/HSST ngày 27/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Minh N, sinh ngày 11/4/1997, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn C, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn N, sinh năm 1956; con bà: Trần Thị L, sinh năm: 1957. Hiện đều trú tại: Thôn C, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Lê Thị Tuyết H, sinh năm: 2000, hiện trú tại: Phường X, quận M, thành phố Hồ Chí Minh và có 01 con là Nguyễn Nhã B, sinh năm 2018, hiện trú tại: Thôn C, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2019 cho đến nay: có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Minh N là đối tượng nghiện ma túy. Tháng 10/2019, Nguyễn Lưu Minh H, hộ khẩu thường trú tại: Thôn C, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (đã chuyển đến thành phố Hồ Chí Minh sinh sống, chưa rõ địa chỉ cụ thể) rủ N bán ma túy cho H thì N đồng ý. Cả hai thỏa thuận, H sẽ gửi ma túy qua các Nhà xe khách tuyến thành phố Hồ Chí Minh – Đắk Lắk để N đi lấy và mang giao cho khách mua ma túy mà H giới thiệu. H sẽ trả công cho N số tiền 200.000đ/01 lần giao.
Vào ngày 25/10/2019, H gọi điện thoại nói N đến nhà xe V, địa chỉ: đường C, phường L, thành phố T lấy ma túy để giao cho khách thì N đồng ý. Khoảng 19h30’ ngày 26/10/2019, N một mình điều khiển xe mô tô hiệu Attila, màu đỏ, biển số 47B1 – 588.83 đến nhà xe V nhận ma túy. Tại đây, N nhận 01 hộp catton hình hộp chữ N, bên ngoài có ghi tên người nhận là N, số điện thoại 0394756564; ghi tên người gửi là G, số điện thoại 0934722221. Đến khoảng 20h00’ cùng ngày, khi N cầm hộp catton ra khỏi nhà xe V thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đắk Lắk, kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ: 01 hộp catton hình hộp chữ N bên ngoài có ghi tên N, số điện thoại 0394756564, ghi tên người gửi là G, số điện thoại 0934722221; bên trong có 01 bộ quần áo thun màu đen; bên trong túi quần thun có 01 bịch nylon màu trắng chứa 40 viên nén màu vàng và 02 bịch nylon màu trắng chứa chất rắn dạng tinh thể, N khai đây là ma túy loại thuốc lắc và khay đã niêm phong theo quy định.
Tại bản kết luận giám định số: 884/GĐMT- PC09 ngày 30/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: 40 viên nén màu vàng đựng trong 01 gói nylon màu trắng, được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 14,8520 gam, loại MDMA. Chất rắn dạng tinh thể màu trắng, đựng trong 02 gói nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 14,1651 gam, loại Ketamine.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 82/2020/HSST ngày 27/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Nguyễn Minh N 09 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/5/2020 bị cáo Nguyễn Minh N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Minh N giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã được tóm tắt nêu. Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Do đó, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là không có căn cứ chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 20h00’ ngày 26/10/2019, tại phía trước Nhà xe V, ở địa chỉ: đường C, phường L, thành phố T, Nguyễn Minh N đã có hành vi cất giấu 14,8520 gam ma túy, loại MDMA và 14,1651 gam ma túy, loại ketamine, với mục đích giúp Nguyễn Lưu Minh H bán cho khách lấy tiền công thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện bắt quả tang. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Minh N, thì thấy:
Mức hình phạt 09 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Bởi lẽ, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo; Tại phiên tòa bị cáo đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Ngoài ra, vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là hạn chế; Bị cáo có nhân thân tốt và có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.
[3] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Minh N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh N – Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 82/2020/HS-ST ngày 27/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.
[1] Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh N 09 (Chín) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2019.
[2] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Minh N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 148/2020/HS-PT ngày 01/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 148/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về