Bản án 148/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 148/2019/HS-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 146/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thế A, sinh năm: 1994 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Xuân T và bà Lê Thị T; có vợ là Trịnh Ngọc H và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/5/2019 đến nay; có mặt.

2. Lữ Ngọc K, sinh năm: 1997 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lữ Ngọc C, sinh năm 1959 và bà Hà Thị Kim M (Đã chết); chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/5/2019 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 17/5/2019 Thế A mang theo 600.000 đồng rồi tự lấy xe máy nhãn hiệu SYM - BKS 26G1 - 166.07 của bố đẻ là ông Nguyễn Xuân T đi đến nhà K để rủ K đi mua hồng phiến để sử dụng. Khi đi đến nhà K thì K và Thế A đã thống nhất Thế A là người sẽ bỏ tiền ra mua ma túy còn K sẽ là người chỉ đường vào khu vực xã L, huyện M để tìm mua ma túy. Sau đó Thế A điều khiển xe máy BKS 26G1-166.07 chở K đi đến bản B, xã L, huyện M thì gặp một người đàn ông dân tộc mông không quen biết khoảng 35 tuổi đang đi bộ một mình, Thế A đã dừng xe máy lại và hỏi mua được của người đàn ông dân tộc Mông đó 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 30 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine với giá 600.000 đồng. K đứng cạnh Thế A chứng kiến toàn bộ quá trình trao đổi mua bán ma túy giữa Thế A và người đàn ông dân tộc Mông. Sau khi mua được Methamphetamine Thế A cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về, khi Thế A và K đang đi ở trên đường dân sinh bản B, xã L, huyện M thì bị tổ công tác Công an huyện M phối hợp với Đồn biên phòng cửa khẩu L đang làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thế A đang cất giấu 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 30 viên Methamphetamine. Thế A và K khai nhận là Methamphetamine của Thế A và K vừa mua được mục đích để sử dụng chung. Căn cứ vào hành vi vi phạm của Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 30 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY nghi là Methamphetamine. Tạm giữ 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SYM màu sơn xanh trắng, BKS 26G1-166.07.

Ngày 17/5/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M và phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định số các viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine thu giữ của Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K: 30 viên nén màu hồng được tổng khối lượng 2,87 gam. Lấy 05 viên được khối lượng 0,48 gam làm mẫu gửi giám định, mẫu ký hiệu “A”, trưng cầu giám định mẫu gửi giám định có phải là ma tuý không? Là loại ma tuý gì? Khối lượng của mẫu giám định là bao nhiêu? Tổng khối lượng vật chứng thu giữ? Tại kết luận giám định số 911 ngày 18/5/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu “A” là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,48 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,87 gam; loại Methamphetamine”.

Cáo trạng số 146/CT-VKSMC ngày 07/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt các bị cáo như sau:

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Thế A từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt các bị cáo Lữ Ngọc K từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K bên trong đựng 25 viên = 2,39 gam Methamphetamine cùng túi nilon màu xanh, vỏ gói niêm phong ban đầu.

4. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, các bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện M. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng; lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 17/5/2019 Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K đã có hành vi cất giấu trái phép 30 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 2,87 gam, mục đích để cùng sử dụng cho việc nghiện ma túy. Hành vi trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Phân hóa vai trò phạm tội của các bị cáo: Bị cáo Nguyễn Thế A là người khởi sướng trực tiếp bỏ tiền và đứng ra giao dịch mua ma túy nên giữ vai trò chính trong vụ án. Bị cáo Lữ Ngọc K là người tiếp nhận ý chí và cùng Nguyễn Thế A đi mua ma túy về để cùng nhau sử dụng nên là đồng phạm trong vụ án.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Các bị cáo nhận thức hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra, cần cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng các bị cáo không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các các bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu SYM - BKS 26G1 - 166.07 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Xuân T (Bố đẻ của Nguyễn Thế A), việc Thế A tự ý lấy xe máy đi mua ma túy ông T hoàn toàn không biết. Ngày 20/6/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã Quyết định xử lý vật chứng, giao trả chiếc xe máy trên cho ông T quản lý, sử dụng là đúng quy định của pháp luật, do vậy không đề cập đến việc xử lý.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K bên trong đựng 25 viên = 2,39 gam Methamphetamine cùng túi nilon màu xanh, vỏ gói niêm phong ban đầu là vật Nhà nước cấm lưu hành, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Nguyễn Thế A ngày 17/5/2019 (như bị cáo khai). Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét thấy thời hạn tạm giam của các bị cáo còn dưới 45 ngày, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam các bị cáo 45 ngày để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thế A phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 17/5/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, 58 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Lữ Ngọc K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lữ Ngọc K 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 17/5/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K bên trong đựng 25 viên = 2,39 gam Methamphetamine cùng túi nilon màu xanh, vỏ gói niêm phong ban đầu.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị cáo Nguyễn Thế A và Lữ Ngọc K phải chịu mỗi bị cáo là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:148/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về