Bản án 148/2019/HNGĐ-ST ngày 14/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 148/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 342/2019/TLST-HNGĐ ngày 04/9/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 335/2019/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 222/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01/11/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng L, sinh năm: 1980;

Nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

* Bị đơn: Bà Đỗ Thị N, sinh năm: 1981;

Nơi cư trú: Ấp S, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.

(Ông L, bà N vắng mặt; Ông L có đơn xin giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn xin vắng mặt tại tòa cùng các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án, nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng L trình bày:

-Về hôn nhân: Ông và bà N cưới nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu vào ngày 26/3/2007, hôn nhân do tự nguyện. Sau khi kết hôn, thời gian đầu ông bà sống rất hạnh phúc, nhưng đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm về chuyện tình cảm vợ chồng và về kinh tế gia đình. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2015 đến nay. Ông L xác định không còn tình cảm với bà N nên ông yêu cầu được ly hôn với bà N.

- Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 05/5/2004 và Nguyễn Hoàng T1, sinh ngày 22/9/2008. Hai con hiện đang sống với ông L. Ông yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con, không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do ở quá xa không tiện việc đi lại nên ông xin vắng mặt, yêu cầu Tòa án giải quyết theo nội dung ông đã trình bày trong đơn.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo cho bà N nội dung khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện của ông L, tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập nhưng bà N đều vắng mặt, cũng không nộp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của ông L nên trong hồ sơ không có lời trình bày của bà N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử là đúng quy định; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: ông L thực hiện đúng; bà N không thực hiện đúng, vắng mặt tại phiên tòa không lý do.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L, cụ thể về hôn nhân: ông L được ly hôn với bà N. Về con chung: ông L được quyền nuôi hai con chung Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 05/5/2004 và Nguyễn Hoàng T1, sinh ngày 22/9/2005. Ghi nhận ông L không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông L khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà N, đây là vụ án hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Hiện nay bà N đang cư trú tại xã Phước Long, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre nên Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Ông L có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Bà N đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L và bà N là phù hợp với quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Ông L và bà N xác lập quan hệ hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 26/3/2007. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Theo ông L trình bày thì quá trình chung sống ông bà xảy ra bất đồng quan điểm về vấn đề tình cảm và kinh tế gia đình dẫn đến việc vợ chồng không còn chung sống, không thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, bà N đã bỏ về nahf mẹ ruột từ năm 2015 đến nay.

Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre được biết sau khi cưới nhau thì ông bà không sống tại xã T mà sống tại nơi khác. Khoảng hơn hai năm trở lại đây thì bà N về sinh sống tại ấp 2, xã T để trị bệnh, ông L không sống chung với bà N mà lâu lâu mới về thăm bà N.

Tòa án đã nhiều lần mời bà N đến để hòa giải, hàn gắn gia đình nhưng bà N vắng mặt, bà N cũng không nộp văn bản cho Tòa án thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông L. Như vậy, có thể thấy hôn nhân giữa hai bên lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai.

[3] Về con chung: Ông L trình bày quá trình chung sống ông và bà N có hai con chung tên Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 05/5/2004 và Nguyễn Hoàng T1, sinh ngày 22/9/2005. Lời trình bày của ông L phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ là bản sao giấy khai sinh của cháu Nguyễn Hoàng T và Nguyễn Hoàng T1 do Ủy ban nhân dân xã Bàu Lâm, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu cấp. Ông L cho rằng hai con đang sống với ông và ông yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con. Theo biên bản lấy ý kiến con chung, em Nguyễn Hoàng T và Nguyễn Hoàng T1 trình bày hiện “hai em đang sống với cha, nếu cha mẹ không sống chung với nhau nữa thì em mong muốn được sống với cha”. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện hai con đang sống với ông L. Bà N vắng mặt cũng không có yêu cầu được nuôi hai con. Do đó, cần tiếp tục giao hai con cho ông L nuôi để tránh gây xáo trộn, ảnh hưởng đến cuộc sống, việc học tập và tâm lý của trẻ nhỏ. Ghi nhận ông L không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông L khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét. Nếu sau này các bên có phát sinh tranh chấp thì có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông L phải nộp theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 59, 81, 82, 83, 84 và Điều 116 Luật Hôn nhân gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Hoàng L đối với bà Đỗ Thị N, cụ thể:

[1]Về hôn nhân: Ông Nguyễn Hoàng L được ly hôn với bà Đỗ Thị N.

[2]Về con chung: Ông Nguyễn Hoàng L được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Hoàng T, sinh ngày 05/5/2004 và Nguyễn Hoàng T1, sinh ngày 22/9/2005. Ghi nhận ông L không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

Bà Đỗ Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Ông L khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét. Nếu sau này các bên có phát sinh tranh chấp thì có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

[4] Về án phí: Ông Nguyễn Hoàng L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005748 ngày 04 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông L đã nộp xong án phí.

[5] Ông Nguyễn Hoàng L và bà Đỗ Thị N được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2019/HNGĐ-ST ngày 14/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:148/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về