Bản án 1479/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1479/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 11năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2019/TLST-HNGĐ ngày 28/01/2019 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 302/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 231/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/10/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị Kim T, sinh năm 1974; địa chỉ: 30 đường N, tổ Z, khu phố Y, Phường X, quận Bình Thạnh, Tp.Hồ Chí Minh. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Duy L, sinh năm 1970; địa chỉ: 15B tổ A, Ấp B, xã X, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/12/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án,nguyên đơn là bà Trương Thị Kim T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Duy L chung sống với nhau từ năm 2010, được Ủy ban nhân dân Phường 11, quận Bình Thạnh, Tp.Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 54/2012, quyền số 01/2012 ngày 09/4/2012. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc do bất đồng quan điểm, không có niềm tin lẫn nhau, mâu thuẫn vợ chồng mỗi ngày mỗi trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, bỏ mặc nhau từ năm 2016. Đến nay thì tình cảm vợ chồng không còn nên bà xin ly hôn với ông L. Bà yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Trương Khánh T, sinh ngày 19/9/2011 và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung.

Bị đơn: ông Nguyễn Duy L được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án nhưng vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu được ly hôn, được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng, xác nhận không có tài sản chung và nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, các đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về việc giải quyết vụ án: Bà T và ông L chung sống có đăng ký kết hôn nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp; Bà T xin ly hôn do mâu thuẫn vợ chồng quá trầm trọng, sống ly thân từ 2016 và xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông L, tại phiên tòa, bà đã được động viên đoàn tụ nhưng cương quyết xin ly hôn nên tình cảm giữa Bà T và ông L không thể hàn gắn được; con chung đang do bà T nuôi dưỡng và có nguyện vọng ở với bà T. Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn; Bị đơn cư trú tại huyện Hóc Môn. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định đây là tranh chấp ly hôn và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Hóc Môn.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 302/2019/QĐXXST-HNGĐ kèm Giấy triệu tập số 400/GTT ngày 26/9/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 231/2019/QĐST-HNGĐ kèm Giấy triệu tập số 464/GTT ngày 22/10/2019 nhưng vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 54/2012, quyền số 01/2012 do Ủy ban nhân dân Phường 11, quận Bình Thạnh, Tp.Hồ Chí Minh cấp ngày 09/4/2012, xác định quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông L là hợp pháp, quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về yêu cầu ly hôn:

Bà T trình bày vợ chồng chung sống không hạnh phúc do bất đồng quan điểm, không có niềm tin lẫn nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi và bỏ mặc nhau từ năm 2016, bà xác định không còn tình cảm với ông L nên xin ly hôn. Ông L đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt không có lý do, cũng không có ý kiến phản hồi là bỏ mặc mâu thuẫn vợ chồng, không có thiện chí hàn gắn, cũng không có giải pháp đoàn tụ.

Tại biên bản xác minh ngày 23 tháng 5 năm 2019, đại diện Ban nhân dân ấp 1 cung cấp thông tin về việc ông Nguyễn Duy L, sinh năm 1970, trú tại 15B ấp B, xã X, huyện Hóc Môn, ông L bị tại nạn giao thông không đi lại được, chỉ có mẹ ruột chăm sóc. Đại diện Tòa án đã đến nơi cư trú để lấy lời khai của ông L nhưng không thực hiện được.

Tại phiên tòa, bà T cương quyết xin ly hôn, vì cho rằng vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, bỏ mặc nhau đã hơn 03 năm, không còn tình cảm với nhau nên hôn nhân chỉ tồn tại về mặt pháp lý, không còn ý nghĩa trên thực tế; mỗi lần bà đưa con về Hóc Môn thăm ông L thì vợ chồng như hai người xa lạ.

Như vậy, có căn cứ xác định việc vợ chồng đã sống ly thân bỏ mặc nhau nhiều năm, không ai có thiện chí hàn gắn, đoàn tụ làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[5] Về con chung, nuôi con chung và cấp dưỡng: Theo lời trình bày của bà T, và Giấy khai sinh số 389/2011, quyển số 02/2011 ngày 24/10/2011 của Ủy ban nhân dân Phường 11, quận Bình Thạnh, Tp.Hồ Chí Minh, có căn cứ xác định bà T và ông L có 01 con chung là Nguyễn Trương Khánh T, sinh ngày 19/9/2011. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với nguyện vọng của con chung tại Biên bản lấy lời khai ngày 23/01/2019, phù hợp với thực tế con chung đang do bà T trực tiếp nuôi dưỡng, phù hợp với quy định tại Điều 81của Luật Hôn nhân và Gia đình. Ghi nhận việc bà T tự nguyện không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, quy định:”Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ”. Ông L vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không có ý kiến phản hồi, cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ nên phải tự chịu trách nhiệm.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà T phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Khoản 4 Điều 147; Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trương Thị Kim T và ông Nguyễn Duy L.

- Về con chung và nuôi con chung: Giao cho bà Trương Thị Kim T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Trương Khánh T, sinh ngày 19/9/2011; tạm ngừng nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Nguyễn Duy L cho đến khi có yêu cầu của bà Trương Thị Kim T.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Khi cần thiết, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: bà Trương Thị Kim T trình bày không có.

2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Trương Thị Kim T phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003279 ngày 08/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn. Bà Trương Thị Kim T đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự .

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1479/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1479/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về