Bản án 147/2021/HS-ST ngày 21/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 147/2021/HS-ST NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 164/2021/TLST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 250/2021/QĐXXST- HS ngày 07/9/2021 đối với bị cáo:

ng A P, sinh ngày 05 tháng 8 năm 1990, tại huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản A, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: không; con ông Vàng Gà T và bà Hờ Thị C; bị cáo có vợ là Thào Thị N sinh năm 1991 và có 03 con; con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/9/2020 đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đàm Mạnh Hùng – Trợ gúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Thào Thị N, sinh năm 1991. Trú tại: Bản A, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người phiên dịch: Anh Tếnh Lao D, sinh năm 2002. Trú tại: Thôn 7, xã Chiềng Mung, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ ngày 12/9/2020, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Sơn La phối hợp với các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố 3, thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La đã phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vàng A P trú tại xã P, huyện M đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 03 túi nilon bên trong chứa các viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp). Ngoài ra còn tạm giữ của Vàng A P: 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại xe SIRIUS biển kiểm soát 89N1-8861, 02 điện thoại di động cùng một số giấy tờ có liên quan khác.

Ngày 12/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định: 03 gói nilon chứa 597 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 57,45gam; trích trong 03 gói 1,44gam làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu P, P2, P4.

Tại Kết luận giám định số: 1462 ngày 15/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Các mẫu gửi giám định ký hiệu P, P2, P4 đều là ma túy, loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,44gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 57,45 gam; loại Methamphetamine.” Quá trình điều tra bị cáo Vàng A P khai nhận:

Ngày 15/8/2020, Vàng A P đi từ nhà ở bản A, xã P, huyện M đến chợ thị trấn Sông Mã chơi. P gặp và quen một người đàn ông dân tộc Mông tự giới thiệu tên Vàng A Vư trú tại xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Vư nói có ma túy bán, khi nào cần mua thì liên lạc với Vư, P nhất trí, hai người cho nhau số điện thoại để liên lạc.

Khong 4 ngày sau, P đi mua ngô giống tại chợ thị trấn Sông Mã, P gặp một người đàn ông dân tộc Kinh tự giới thiệu tên Thanh ở thị trấn huyện Sông Mã (P không biết địa chỉ cụ thể) hỏi mua 01 túi hồng phiến với giá 1.500.000đ, P đồng ý. Hai người cho nhau số điện thoại để liên lạc. Sau đó P gọi điện cho Vư nói có khách hỏi mua 01 gói hồng phiến với giá 1.500.000đ P bảo Vư có hồng phiến thì đưa cho P bán. Vư đồng ý và hẹn P đến khu vực cầu Cứng huyện Sông Mã để nhận ma túy mang đi bán, bán xong Vư sẽ cho P 500.000đ. P đi xe máy ra khu vực cầu Cứng gặp Vư, Vư đưa cho P 1 túi hồng phiến, P ra khu vực chợ thị trấn Sông Mã bán cho Thanh được 1.500.000đ. Bán ma túy xong P cầm tiền ra khu vực cầu Cứng đưa cho Vư, Vư trả công cho P 500.000đ. Đến 15 giờ ngày 11/9/2020, Thanh tiếp tục gọi điện đặt mua 03 túi hồng phiến với số tiền 4.500.000đ. P gọi điện thông báo lại với Vư, Vư hẹn 15 giờ ngày hôm sau (ngày 12/9/2020) sẽ mang ma túy đến khu vực cầu Cứng giao cho P và hứa trả công cho P 1.500.000đ. Trao đổi với Vư xong, P gọi điện thông báo lại cho Thanh, hẹn khi nào có ma túy sẽ mang đến khu vực chợ thị trấn Sông Mã giao cho Thanh. Đến 15 giờ ngày 12/9/2020, P đi xe máy ra khu vực cầu Cứng gặp Vư để nhận 03 túi hồng phiến. Giao ma túy xong, Vư đi đâu P không biết, còn P cầm 03 túi hồng phiến đi xuống khu vực gầm cầu Cứng gọi điện cho Thanh đến mua ma túy thì bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số: 97/CT-VKS-P1 ngày 27/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố Vàng A P về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Vàng A P phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng A P 16 năm đến 17 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/9/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung ( phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại của vụ án; trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Thào Thị N 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA biển kiểm soát 89N1-8861 và đăng ký xe; sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu HPHONE; trả lại cho cáo P 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, 01 chứng minh thư nhân dân và 01 giấy phép lái xe.

Quan điểm của Trợ gúp viên pháp lý ông Đàm Mạnh Hùng bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng. Đề nghị HĐXX xem xét: sau khi bị bắt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật hạn chế, bị cáo thuộc hộ nghèo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xem xét mức hình phạt thấp nhất cho bị cáo là 15 năm tù; miễn hình phạt bổ sung - phạt tiền và án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo; trả lại cho gia đình bị cáo chiếc xe máy và giấy tờ xe.

- Bị cáo Vàng A P nhất trí với quan điểm bào chữa của Luật sư, xin hình phạt mức án thấp nhất.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Thào Thị N trình bày: chị là vợ của bị cáo Vàng A P. Chiếc xe máy BKS 89N1 – 8861 là tài sản chung vợ chồng, mua bán có làm giấy tờ, chồng sử dụng chiếc xe đi mua bán ma túy chị không biết; đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe máy và giấy tờ xe cho gia đình chị để sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Ngày 12/9/2020, Vàng A P có hành vi mua bán trái phép 57,45 gam Methamphetamine nhằm mục đích kiếm lời thì bị tổ công tác Công an tỉnh Sơn La bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ như sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vàng A P lập hồi 16 giờ 15 phút ngày 12/9/2020, tại trụ sở Công an trị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La cùng vật chứng thu giữ;

- Kết luận giám định số: 1462 ngày 15/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Các mẫu gửi giám định ký hiệu P, P2, P4 đều là ma túy, loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,44gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 57,45 gam; loại Methamphetamine.”

- Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Từ các chứng cứ chứng minh nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vàng A P phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Khung hình phạt áp dụng:

Bị cáo Vàng A P đã có hành vi tàng trữ trái phép 57,45 gam Methamphetamine nhằm mục đích bán kiếm lời, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự “Heroine, Cocaine, Methamphetamine……có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam”có khung hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.

[4] Xét về nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo Vàng A P là người có đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc mua bán, tàng trữ 57,45 gam Methamphetamine là vi phạm pháp luật nhưng do hám lời nên vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm pham chinh sach đôc quyên quan ly cua Nha nươc v ề chất ma túy, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác và gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương nên cần phải có mưc hinh phat nghiêm khắc , tương xưng vơi tinh chât , mưc đô ha nh vi pham tôi của bị cáo nhằm đảm bảo biện pháp trừng trị, cải tạo, giáo dục đối với bị cáo trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài hành vi phạm tội bị phát hiện bắt giữ, quá trình điều tra Vàng A P khai nhận trước đó Vư đã đưa 01 gói hồng phiến cho P để bán cho Thanh. Do chỉ một lời khai của P, Cơ quan điều tra không xác định được Thanh và Vư nên không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Vàng A P về hành vi trên.

Vì vậy Vàng A P phải chịu trách nhiệm đối với 57,45gam Methamphetamine thu giữ trong vụ án.

[5] Về tình tiết tăng nặng: không; giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Vàng A P phạm tội lần đầu; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lời, phục vụ bản thân sử dụng ma túy, bị cáo đã cố ý thực hiện. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo là người dân tộc thiểu số với trình độ hạn chế là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tai khoan 5 Điêu 251 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn , gia đình thuộc hộ nghèo không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiên) đôi vơi bị cáo.

[7] Những đối tượng liên quan đến vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án Vàng A P khai là của Vàng A Vư trú tại xã Huổi Một, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La đưa cho P mang đi bán. Cơ quan cảnh sát điều tra đã xác minh điều tra tại xã Huổi Một có một đối tượng là Vàng A Vư sinh năm 1991. Cơ quan điều tra đã tra cứu ảnh của Vàng A Vư tại phòng quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Sơn La để P nhận dạng. Kết quả P không nhận dạng được ảnh của người đã đưa ma túy cho P mang đi bán. Xác minh số điện thoại 0338247266, P khai là số điện thoại của Vư đã liên lạc với P để mua bán ma túy, kết quả xác minh người đăng ký thuê bao là Bùi Gia Chung sinh ngày 14/8/1948 trú tại thị trấn Vũ Thư, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La đã ủy thác cho Công an tỉnh Thái Bình xác minh thu thập ảnh của Bùi Gia Chung cho P nhận dạng ảnh, kết quả P không nhận dạng được người đã đưa ma túy cho P đi bán. Ngoài lời khai của P, Cơ quan điều tra không còn nguồn tài liệu nào khác để điều tra mở rộng vụ án.

Đối với người đàn ông mua ma túy tên Thanh: Quá trình điều tra P không biết họ, địa chỉ cụ thể của Thanh. Xác minh số điện thoại 0988514529 P khai là của Thanh, kết quả người đăng ký số thuê bao trên là Trương Văn Bắc sinh năm 1988, trú tại xã Tuấn Đạo, huyện Động Sơn, tỉnh Bắc Giang. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La đã ủy thác cho Công an tỉnh Bắc Giang xác minh thu thập ảnh của Trương Văn Bắc cho P nhận dạng, kết quả P không nhận dạng được người đã đặt mua ma túy. Ngoài lời khai của P, Cơ quan điều tra không còn nguồn tài liệu nào khác để điều tra mở rộng vụ án.

[8] Về vật chứng: Đối với 56,01gam Methamphetamine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định, xét đây là loại ma túy Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy YAMAHA SIRIUS biển kiểm soát 89N1-8861 và đăng ký xe mô tô số 025306 mang tên Phạm Văn Chiến, tạm giữ khi bắt quả tang Vàng A P. Xét thấy đây là tài sản chung vợ chồng của bị cáo và chị Thào Thị N. Việc bị cáo Vàng A P sử dụng chiếc xe để đi mua bán ma túy chị N không biết và không liên quan do đó cần trả lại chiếc xe và giấy tờ xe cho chị Thào Thị N.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Hphone màu đỏ đen, xét thấy bị cáo Vàng A P đã sử dụng vào việc liên lạc trao đổi mua bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, xét thấy bị cáo Vàng A P không sử dụng vào việc liên lạc trao đổi mua bán ma túy nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chứng minh thư nhân dân và giấy phép lái xe tạm giữ của Vàng A P, xét không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo Vàng A P thuộc hộ nghèo nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo: Vàng A P phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Vàng A P 16 ( mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 12/9/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 56,01gam Methamphetamine được đựng trong 01(một) phong bì vật chứng còn nguyên niêm phong.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu hphone màu đen đỏ, số IMEI1: 354 530 090 546 852; IMEI 2: 354 530 090 546 860, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

- Trả cho bị cáo Vàng A P:

+ 01 (một) chứng minh nhân dân số 050 712 864 mang tên Vàng A P, do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 08/01/2008.

+ 01 (một) Giấy phép lái xe số 1400 8101 0052 mang tên Vàng A P, do Sở Giao thông vận tải tỉnh Sơn La cấp ngày 11/9/2008.

+ 01 (một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu trắng bạch, số IMEI: 865 815 028 289 507, điện thoại cũ đã qua sử dụng, mặt kính bị vỡ nát.

- Trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Thào Thị N 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS, biển kiểm soát 89N1- 8861, màu đen, số khung C640AY279705; số máy 5C64-279706, xe cũ đã qua sử dụng, có gương chiếu hậu, không có chìa khóa xe, xe bị vỡ yếm bên phải và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 025 306 mang tên Phạm Văn Chiến, do Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Hưng Yên cấp ngày 14/7/2010. Biển kiểm soát 89N1-8861.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/8/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La và Cục thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Vàng A P.

Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 21/9/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 147/2021/HS-ST ngày 21/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:147/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về