Bản án 147/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 147/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 09 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 585/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 168/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991; Địa chỉ: Đường A, phường N, thành phố M, tỉnh T. Tạm trú: Ấp M, xã Đ, thành phố M, tỉnh T.

2. Bị đơn: Anh Tô Thanh H, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Đường A, phường N, thành phố M, tỉnh T.

Tạm trú: Ấp M, xã Đ, thành phố M, tỉnh T. (Có mặt chị H, anh H)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 21/9/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Tô Thanh H tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố M, tỉnh T vào ngày 16/12/2013. Thời gian vợ chồng chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do anh H không lo làm ăn, thường xuyên nhậu nhẹt, không lo chăm sóc gia đình, thường xuyên xúc phạm, đánh chị hai lần, bóp cổ và kề dao vào cổ chị. Vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng từ tháng 6/2020 và ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tô Thanh H.

Về con chung: Có 01 con chung là Tô Nguyễn Phúc K, sinh ngày 25/6/2016. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi, lao động được.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Tô Thanh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án và không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa:

Chị H: Vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Anh H trình bày: Anh đồng ý với lời trình bày của chị H về thời điểm chung sống, đăng ký kết hôn và thời điểm ly thân. Từ tháng 8/2020, anh thất nghiệp nên anh có đi nhậu nhẹt, đánh đề. Anh nóng quá nên có đánh chị H chỉ một lần do anh năn nỉ mà chị H vẫn đòi ly hôn. Anh không đồng ý ly hôn do vẫn còn thương vợ, anh đã bỏ cờ bạc và đi làm lại.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử và nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu khởi kiện của chị H là có căn cứ và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị, giao con chung là cháu Tô Nguyễn Phúc K, sinh ngày 25/6/2016 cho chị H nuôi dưỡng, anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày và phát biểu tranh luận của đương sự, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh H nên đây là tranh chấp ly hôn được quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Tô Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân phường N, thành phố M, tỉnh T cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật nên hôn nhân của chị H và anh H là hôn nhân hợp pháp.

Xét thấy, chị H trình bày không còn tình cảm, không muốn tiếp tục chung sống đời sống vợ chồng với anh Hùng và tại phiên tòa vẫn cương quyết ly hôn. Anh H không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được một biện pháp cụ thể nào để hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Nhận thấy, đời sống vợ chồng giữa anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt và đã ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay. Đời sống chung của anh chị không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 01 con chung là Tô Nguyễn Phúc K, sinh ngày 25/6/2016, chị H yêu cầu giao con chung cho chị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu K hiện nay đang sống với chị H, anh H đồng ý giao con cho chị H nuôi dưỡng, vì vậy để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện, ổn định về tâm lý của cháu K thì Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu cho chị H tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị H yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi, lao động được là phù hợp theo quy định tại Điều 110, Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và anh H đồng ý nên được chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho là có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

Anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84, 110, 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5, điểm đ khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Tô Thanh H.

- Về con chung: Giao con chung là Tô Nguyễn Phúc K, sinh ngày 25/6/2016 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, anh Tô Thanh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Thời gian thực hiện từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con đủ 18 tuổi và lao động được.

Anh có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị H có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền cấp dưỡng, nếu anh H chậm thi hành án, thì hàng tháng còn phải chịu số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

2. Về án phí:

Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Chị H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002002 ngày 02/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, nên xem như đã nộp xong.

Anh Tô Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Về quyền kháng cáo: Chị H và anh H có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 147/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:147/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về