Bản án 147/2019/HS-ST ngày 28/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 147/2019/HS-ST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2019/HSST ngày 01/03/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2019/QĐXXST-HS ngày 06/03/2019 đối với các bị cáo:

1/ Nguyễn Văn Th (tên gọi khác: Bớt); sinh năm 1994 tại Đồng Th; Nơi cư trú: 69/80, KP3, phường Tam Hòa, thành phố B, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: lớp 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Tsinh năm 1966 (đã chết) và bà: Vũ Thị Ngọc L, sinh năm 1968 (còn sống); Tiên án, tiền sự: Chưa. Bị giam giữ từ ngày 05/09/2018 đến ngày 14/9/2018. Sau đó, Viện kiểm sát nhân dân TP.B ra Quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện bị cáo đang được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại.

2/ Võ Huy T; sinh năm 1987; Nơi đăng ký hộ khẩu: 102, khóm 2, KP5, thị trấn Tân Phú, huyện T, tỉnh ĐNghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: lớp 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Võ Văn Th, sinh năm 1950 (Còn sống) và bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1953(Còn sống); Tiên án, tiền sự: Chưa; Bị giam giữ từ ngày 05/09/2018 đến ngày 14/9/2018 được Viện kiểm sát nhân dân TP.B ra Quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giữ thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Trong thời gian được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B vào ngày 28/01/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

* Bị hại : Anh Nguyễn Hoàng Q, sinh năm 1998.

Trú tại: 103B, KP2, phường Tân Phthành phố B, tỉnh Đ.

* Ng ười làm chứn g: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1980.

Trú tại: tổ 26, KP5, phường Trảng D, thành phố B, tỉnh Đ.

(Tại phiên tòa có mặt các bị cáo; bị hại; người làm chứng vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Huy T và Nguyễn Văn Thlà các đối tượng không có nghề nghiệp, để có tiền tiêu xài, Tvà Thcùng bàn bạc rủ nhau đi trộm cắp tài sản.

Khong 02 giờ 30 phút ngày 05/9/2018, Tài điều khiển xe mô tô biển số 54P4-8627 chở Thđi trên đường Phan Tr thuộc khu phố 2, phường Tân T, thành phố B, thì phát hiện 01 xe mô tô hiệu Spacy biển số 60F1-836.15 của anh Nguyễn Hoàng Q, sinh năm 1998, ngụ 103B khu phố 2, phường Tân Ph, thành phố B đang dựng ở lề đường phía trước nhà số 35/175A, khu phố 2, phường T, T dừng xe và đứng ngoài cảnh giới, còn Th đi bộ tới dắt trộm chiếc xe mô tô biển số 60F1-836.15. Th dắt chiếc xe của anh Q đi được khoảng 20m, sau đó Thắng ngồi lên chiếc xe trên để Tài chạy xe mô tô biển số 54P4-8627 đẩy phía sau. Khi cả hai đi tới khu vực gần cầu Đồng Kh, phường Trảng Dthành phố B, thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Trảng D yêu cầu dừng lại kiểm tra hành chính, phát hiện T, Th có hành vi trộm cắp tài sản nên Công an Phường Trảng D đã lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô hiệu Spacy màu sơn đen, biển số 60F1-836.15, là xe của anh Nguyễn Hoàng Q Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho anh Q.

- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ của Võ Huy T01 xe mô tô hiệu Dream biển số 54P4-8627 số khung LV 100201005398, số máy 1P50FMG10394496; 01 tua vít dài khoảng 25cm cán màu vàng đỏ; 01 mỏ lết màu vàng, dài khoảng 20cm có ký hiệu 70117-06.15; 01 dao Thái Lan dài khoảng 25cm; 01 vam dùng để mở khóa xe máy dài khoảng 15cm; 03 giấy chứng nhận đăng ký xe: 01 giấy đăng ký xe biển số 54P4-8627 tên Nguyễn Thị Kiều A; 01 giấy đăng ký xe biển số 60F1-347.16 tên Lê Trường Th; 01 giấy đăng ký xe biển số 63B1-564.67 tên Phạm Thị Ngọc P.

- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Wiko màu đen, số Imel: 356651083034470 là điện thoại của Võ Văn T, không sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho T.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 300/TCKH-HĐĐG ngày 14/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B đã kết luận: “01 xe mô tô hiệu Honda Spacy màu đen, biển số 60F1-836.15 có giá trị tài sản định giá là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng)”.

Trách nhiệm dân sự: anh Nguyễn Hoàng Qđã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Đi với 03 giấy chứng nhận đăng ký xe gồm: 01 giấy đăng ký xe biển số 54P4-8627 tên Nguyễn Thị Kiều A; 01 giấy đăng ký xe biển số 60F1- 347.16 tên Lê Trường Th; 01 giấy đăng ký xe biển số 63B1-564.67 tên Phạm Thị Ngọc Ph, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 102/CT/VKS-BH ngày 18/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân TP.B đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Thvà Võ Huy T về tội "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th và Võ Huy T mức án từ: 10 tháng đến 12 tháng tù giam.

Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố B tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 tua vít dài khoảng 25cm cán màu vàng đỏ; 01 mỏ lết màu vàng, dài khoảng 20cm có ký hiệu 70117-06.15; 01 dao Thái Lan dài khoảng 25cm; 01 vam dùng để mở khóa xe máy dài khoảng 15cm do không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hiệu Dream biển số 54P4-8627 số khung LV 100201005398, số máy 1P50FMG10394496 là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo, bị hại, người làm chứng;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay, các bị cáo Nguyễn Văn Thắng và Võ Huy T đã khai nhận: Vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 05/9/2018, tại khu phố 2, phường T, thành phố B, Nguyễn Văn Th và Võ Huy Tđã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô hiệu Honda Spacy màu đen, biển số 60F1-836.15 là tài sản của anh Nguyễn Hoàng Qcó giá trị tài sản định giá là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng). Khi cả hai đang dẫn xe về phòng trọ của Tài để cát giấu nhằm mục đích đem đi tiêu thụ thì lực lượng tuần tra Công an phường Trảng D kiểm tra, phát hiện và bị bắt giữ xử lý. Lời khai nhận này của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự như nội dung Bản cáo trạng số 102/CT/VKSBH ngày 18/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP.B đã truy tố các bị cáo là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, là khách thể được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương; gây hoang mang trong quần chúng nhân dân; các bị cáo đều là những thanh niên có sức khỏe, tuổi đời còn trẻ; có khả năng lao động nhưng lại ham chơi, lười lao động; không có nghề nghiệp và để có tiền tiêu xài mà không phải bỏ sức; các bị cáo bất chấp các quy định của pháp luật; rủ rê nhau cùng đi tìm nơi có tài sản sơ hở để chiếm đoạt. Xét đây là một vụ án đồng phạm, mang tính giản đơn, không có sự tổ chức, phân công vai trò cụ thể giữa các bị cáo. Về vai trò của từng bị cáo thì bị cáo Võ Huy T là người đề xuất đi trộm cắp tài sản, được bị cáo Thắ đồng ý cùng thực hiện. Khi phát hiện tài sản, bị cáo Thlà người trực tiếp lấy tài sản, bị cáo T cảnh gới để bị cáo Th thực hiện trót lọt hành vi. Như vậy, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội giữa hai bị cáo đều là thực hành tích cực tội phạm và có sự tương đương nhau. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, mặc dù đã được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, nhưng bị cáo T lại có hành vi bỏ trốn, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, thể hiện ý thức không chấp hành pháp luật của bị cáo Tài. Hơn nữa, bị cáo T tại phiên tòa ban đầu khai báo quanh co, không thành khẩn. Do đó, cần xử phạt bị cáo T mức án cao hơn bị cáo Th, nhằm cải tạo giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Tuy nhiên, khi lượng hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn, hối cải về hành vi đã thực hiện. Các bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn do tài sản đã được thu hồi trả lại bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo được quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và sẽ được Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc khi quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Hoàng Q đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5]. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6]. Về biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Dream biển số 54P4-8627 số khung LV 100201005398, số máy 1P50FMG10394496, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được chủ sở hữu, và xe này được hai bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật là có căn cứ.

- Đối với vật chứng của vụ án là 01 tua vít dài khoảng 25cm cán màu vàng đỏ; 01 mỏ lết màu vàng, dài khoảng 20cm có ký hiệu 70117-06.15; 01 dao Thái Lan dài khoảng 25cm; 01 vam dùng để mở khóa xe máy dài khoảng 15cm thu giữ của Võ Huy T do không còn giá trị sử dụng, nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 - Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Th (tên gọi khác là Bớt) và Võ Huy Tphaïm toäi “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th: 01 (Một) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, nhưng được trừ đi thời gian bị giam giữ trước từ ngày 05/9/2018 đến ngày 14/9/2018.

Xử phạt bị cáo Võ Huy T: 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù giam. Thời hạn tù từ tính từ ngày 28/01/2019, nhưng được trừ đi thời gian đã bị giam giữ trước từ ngày 05/9/2018 đến ngày 14/9/2018.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 tua vít dài khoảng 25cm cán màu vàng - đỏ; 01 mỏ lết màu vàng, dài khoảng 20cm có ký hiệu 70117-06.15; 01 dao Thái Lan dài khoảng 25cm; 01 vam dùng để mở khóa xe máy dài khoảng 15cm do không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hiệu Dream biển số 54P4-8627 số khung LV 100201005398, số máy 1P50FMG10394496 là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

(những vật chứng này được thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/01/2019 của Chị cục thi hành án dân sự TP.B) Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 147/2019/HS-ST ngày 28/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:147/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về