Bản án 147/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 147/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án thụ lý số 204/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2018 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3692/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1968; nơi cư trú: Thôn 3, xã KB, huyện TN, thành phố Hải Phòng;

- Bị đơn: Anh Tseng Kuo S, sinh năm 1969, nơi cư trú: Phòng 1, số nhà 117 KT, thành phố PT, huyện GN, Lãnh thổ Đài Loan.

Các đương sự đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị và anh Tseng Kuo S xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn với nhau tại UBND huyện TN, thành phố Hải Phòng ngày 15/8/2016. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng anh chị đã đến Văn phòng kinh tế văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội để phỏng vấn visa định cư nhưng không được thông qua. Qua nhiều lần phỏng vấn lại không được chấp nhận. Từ đó đến nay đã hơn hai năm, vợ chồng xa cách, chị T ở Việt Nam còn anh Tseng Kuo S ở Đài Loan, không có điều kiện chung sống cùng nhau. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh Tseng Kuo S càng sớm càng tốt để chị nhanh chóng ổn định cuộc sống.

Về con chung, tài sản chung: Chị và anh Tseng Kuo S không có con chung, tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Nguyễn Thị T đề nghị không tiến hành hòa giải và xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

Trong bản tự khai của bị đơn gửi về Tòa án (đã được chứng thực lãnh sự), anh Tseng Kuo S trình bày: Anh thống nhất với chị Nguyễn Thị T về quá trình kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng. Xác định vợ chồng không còn tình cảm, vợ chồng không thể đoàn tụ anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh và chị T ly hôn với nhau. Về con chung, tài sản chung: Anh Tseng Kuo S cũng xác nhận vợ chồng không có con chung, tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh Tseng Kuo S ở nước ngoài nên anh đề nghị Tòa án xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị T và anh Tseng Kuo S vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời khai của đương sự tại phiên tòa, xét thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về việc ly hôn. Anh Tseng Kuo S ở nước ngoài, không có nơi cư trú, làm việc ở Việt Nam, chị Nguyễn Thị T hiện đang cư trú tại thành phố Hải Phòng. Mặt khác, anh Tseng Kuo S và chị T đều có đơn đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết việc ly hôn. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm b khoản 1 Điều 39; điểm c khoản 1 Điều 40; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc hòa giải vụ án và sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn anh Tseng Kuo S đang cư trú tại Lãnh thổ Đài Loan, chị T đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Do vậy, căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh Tseng Kuo S và chị Nguyễn Thị T đều vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Tseng Kuo S kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn với nhau tại UBND huyện TN, thành phố Hải Phòng ngày 15/8/2016, theo quy định tại Điều 8; Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn do anh Tseng Kuo S không làm được thủ tục bảo lãnh cho chị T sang Đài Loan nhập cư, sinh sống để vợ chồng đoàn tụ. Chính vì khoảng cách về địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, vợ chồng sống ly thân với nhau trong khoảng thời gian dài. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh Tseng Kuo S đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 châp nhân đề nghị ly hôn của chị T.

[4] Về con chung và tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Tseng Kuo S đều xác nhận không có con chung, không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T và anh Tseng Kuo S được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; điểm c khoản 1 Điều 40;khoản 4 Điều 147; Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228;  Điều 238; Điều273; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Tseng Kuo S.

2. Về con chung và tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Tseng Kuo S không có con chung và tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng đươc trư vao sô tiên tam ưng án phí dân sư sơ thâm đa nôp la 300.000đ (ba trăm nghin đông ) theo Biên lai sô 0003694ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Chị Nguyễn Thị T đa nôp đu án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

+ Anh Tseng Kuo S (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

+ Chị Nguyễn Thị T (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
  • Tên bản án:
    Bản án 147/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    147/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    30/11/2018
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 147/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:147/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về