Bản án 146/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 về tội môi giới mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 146/2020/HS-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 02 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 159/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 02 tháng 7 năm 1980 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Đường C, phường C, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phú H1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim D; bị cáo có chồng là Vũ Quang T (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 23/8/2020; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 25/8/2020; có mặt.

- Người làm chứng:

+ Chị Đào Thị Vân A; vắng mặt.

+ Anh Đào Thế A1; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đào Thế A1 có quan hệ quen biết với Nguyễn Thị Thu H và được H nói nếu có nhu cầu mua dâm cứ liên lạc với H. Khoảng 19 giờ ngày 23/8/2020, Thế A1 gặp H tại khu vực đường tàu Cầu Đất, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng nhờ H tìm gái mại dâm để Thế A1 mua dâm. H đồng ý và thỏa thuận với Thế A1 một lượt mua dâm giá 3.000.000 đồng, tiền phòng nghỉ để thực hiện việc mua bán dâm Thế A1 phải chịu. Thế A1 đồng ý và đến khách sạn Ngọc Lan ở số 81 đường Nguyễn Trãi, phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng gặp lễ tân khách sạn thuê phòng chờ H gọi gái bán dâm đến. Sau khi thoả thuận với Thế A1, H đã liên lạc với Đào Thị Vân A đến bán dâm cho Thế A1 tại khách sạn Ngọc Lan. H và Vân A thoả thuận một lượt mua bán dâm Vân A sẽ thu của khách mua dâm số tiền 3.000.000 đồng, trong đó Vân A sẽ được hưởng 2.500.000 đồng còn H được hưởng 500.000 đồng tiền môi giới. Thoả thuận với H xong, Vân A rủ bạn là Cao Ngọc H, sinh năm 1996; nơi cư trú: Thôn Đô Lương, xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội cùng đi đến khách sạn Ngọc Lan. Tại đây, Vân A gặp Thế A1 nói chuyện và cùng nhau lên phòng 308, còn H ở phía dưới sảnh khách sạn chờ Vân A. Khi Thế A1 và Vân A lên phòng, Thế A1 đã trả trước cho Vân A số tiền 3.000.000 đồng, Vân A nhận tiền rồi cất vào túi xách của mình. Sau đó, Thế A1 và Vân A thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 bao cao su đã qua sử dụng và số tiền 3.000.000 đồng trong túi xách của Vân A chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng quản lý.

Tại Bản Cáo trạng số 140/CT-VKSNQ ngày 13/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu H về tội Môi giới mại dâm theo khoản 1 Điều 328 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị Thu H khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên tại phiên toà, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo Nguyễn Thị Thu H với mức án từ 09 tháng đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 30 tháng về tội Môi giới mại dâm. Do bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng, tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 3.000.000 đồng là tiền do Vân A bán dâm mà có. Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 23/8/2020, Nguyễn Thị Thu H có hành vi môi giới cho Đào Thị Vân A bán dâm cho Đào Thế A1 tại khách sạn Ngọc Lan ở số 81 đường Nguyễn Trãi, phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng nhằm mục đích thu lợi bất chính số tiền 500.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Môi giới mại dâm được quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm an toàn, trật tự công cộng, thuần phong mỹ tục, là một trong những tệ nạn mà Nhà nước nghiêm cấm. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng:

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ:

[6] Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, có nơi cư trú rõ ràng nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, do bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về việc xử lý vật chứng:

[8] Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 3.000.000 đồng do Vân A bán dâm mà có.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với Đào Thị Vân A, Đào Thế A1 là những người mua, bán dâm, Công an quận Ngô Quyền đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đối với Cao Thị H đi cùng Vân A nhưng không biết việc bán dâm của Vân A; lễ tân khách sạn Ngọc Lan không biết việc các đối tượng thuê phòng khách sạn để mua, bán dâm nên không xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị Thu H 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Môi giới mại dâm, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Thu H cho Ủy ban nhân dân phường Cầu Đất, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù cho bản án đã cho hưởng án treo.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 bao cao su đã qua sử dụng; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 3.000.000 (ba triệu) đồng theo biên bản giao nhận vật chứng và biên lai thu tiền số 6033 ngày 13/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Nguyễn Thị Thu H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:146/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về