Bản án 146/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về ly hôn và con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 146/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ LY HÔN VÀ CON CHUNG

Ngày 14 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 178/2020/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 về việc ly hôn và con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 119/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị V ; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn M , xã P , huyện T , thành phố Hải Phòng; địa chỉ nơi ở hiện nay: Thôn D , xã Đ , huyện M , tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Duy T ; địa chỉ: Thôn M , xã P , huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Trần Thị V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị V và anh Phạm Duy T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P , huyện T , thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 35 ngày 04 tháng 5 năm 2015. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh T không quan tâm đến gia đình. Chị V xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh Phạm Duy T .

- Về con chung: Chị V và anh T có một con chung là Phạm Duy K , sinh ngày 20 tháng 01 năm 2016. Hiện nay con đang ở cùng với chị V . Khi ly hôn, chị V đề nghị được tiếp tục nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con chị V đề nghị để chị và anh T tự thỏa thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị V trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Duy T mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án để trình bầy quan điểm về việc chị Viên có đơn xin ly hôn.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật về dân sự. Tòa án đã xác định đúng thẩm quyền giải quyền vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và nuôi con của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời khai của chị Trần Thị V tại Tòa án phù hợp với giấy đăng ký kết hôn mà chị V đã giao nộp cho Tòa án, phù hợp với tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã P . Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng chị V và anh T có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh T chưa chăm lo đến đời sống gia đình. Anh Phạm Duy T hiện nay đang sinh sống tại xã P, đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không đến Tòa án trình bầy quan điểm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Phạm Duy T cư trú tại xã P, huyện T , thành phố Hải Phòng; anh T vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Chị Trần Thị V có đơn xin xét xử vắng mặt vì điều kiện ở xa đi lại khó khăn. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có thẩm quyền xét xử vụ án này. Căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh T đã được xác lập là hợp pháp ( Giấy chứng nhận kết hôn số 35 ngày 04 tháng 5 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân xã P , huyện T , thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng sống ly thân nhau đã lâu, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trần Thị V được ly hôn anh Phạm Duy T .

[3]. Về con chung: Chị Trần Thị V và anh Phạm Duy T có một con chung là Phạm Duy K , sinh ngày 20 tháng 01 năm 2016. Chị V đang nuôi con và có yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, chị Viên đang trực tiếp nuôi con chung, chị V có đủ điều kiện nuôi con. Vì vậy, tiếp tục giao cho chị V trực tiếp nuôi con chung là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị V trình bầy để chị và anh Tuyên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không đề nghị Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[5]. Về tài sản chung: Chị V trình bầy vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác chưa có lời khai của anh T về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Trần Thị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị V được ly hôn anh Phạm Duy T .

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị V trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Duy K , sinh ngày 20 tháng 01 năm 2016; cho đến khi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000647 ngày 27 tháng 02 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Trần Thị V đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về ly hôn và con chung

Số hiệu:146/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về