Bản án 146/2019/HSST ngày 21/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 146/2019/HSST NGÀY 21/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội đã xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 139/2019, ngày 03 tháng 6 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn D, sinh năm 1991. HKTT và nơi ở: Số 2 ngõ 339 PT, phường PT, quận Hoàn Kiến, Thành phố Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 4/12. Họ và tên bố: Nguyễn Văn Th sinh năm 1961. Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Châm O, sinh năm 1959. Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ tư. Vợ: Vũ Thu H sinh năm 1991, có một con sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000055 lập ngày 23/12/2019 tại Công an quận Long Biên và lý lịch bị can thể hiện bị cáo có 02 tiền án và 02 tiền sự.

Tiền án:

- Bản án số 57/2010/HSST ngày 19/3/2010 TAND quận Hoàn Kiếm xử phạt 05  năm  tù  về  tội  cướp  tài  sản.  Hạn  tù  tính  từ  ngày  04/5/2009.  Ra  trại  ngày 04/10/2013. Đã đóng án phí theo Biên lai số 32584 ngày 19/3/2010. (đã được xóa án tích)

- Bản án số 257/2014/HSST ngày 20/8/2014 TAND quận Hoàng Mai xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hạn tù tính từ ngày 03/5/2014. Ra trại ngày 03/8/2016. Đã nộp án phí theo Biên lai số 5904 ngày 20/8/2014. (đã được xóa án tích)

Tiền sự:

- Ngày 23/6/2003 Công an quận Hoàn Kiếm đưa vào trại giáo dưỡng.

- Ngày 20/4/2006 xử phạt hành chính tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo tạm giữ từ ngày 21/12/2018. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội.

 (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 0h05’ ngày 21/12/2018, tổ công tác công an phường Bồ Đề, quận Long Biên tiến hành kiểm tra phòng 134 nhà nghỉ Phước Đạt, Phú Viên, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội có Nguyễn Văn D-SN: 1991, HKTT: số 2 ngõ 339 Phúc Tân, phường Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; Đinh Hồng Nhung - SN: 1996, HKTT: 43 ngõ 378 Thụy Khuê, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội; Nguyễn Chiến Thắng - SN: 1992, HKTT: số 2 ngõ 339 Phúc Tân, Hoàn Kiếm, Hà Nội và Bùi Văn Cường - SN: 1986, HKTT: tổ 11 Gia Thụy, Long Biên, Hà Nội đang ở trong phòng. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trên mặt bàn uống nước có 01 túi nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 bộ tẩu hút tự tạo. Tại chỗ, D khai nhận là túi nilong đựng ma túy đá do D mua về nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Tang vật thu giữ của D gồm

+ 01 túi nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng

+ 01 bộ tẩu hút tự tạo

+ 01 điện thoại HTC màu đen lắp sim 0378819007 đã qua sử dụng

+ 01 vam phá khóa bằng kim loại dài 08cm và 01 tay công bằng kim loại

+ 01 xe máy Dream không BKS màu nâu, SK: LJCXCGLA106015288, SM: C10001292697

Tại Kết luận giám định số 9679 ngày 29 tháng 12 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội kết luận: (BL:40)

+ Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại methamphetamine khối lượng 0,668 gam

+ 01 bộ tẩu hút tự tạo dính ma túy loại methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 151/CT-VKS ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm

Bị cáo Nguyễn Văn D khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản cáo trạng mà  Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm nhân dân quận Long Biên sau khi tóm tắt nội dung sự việc, đánh giá lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo; trình bầy lời nhận tội và đề nghị như sau:

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn D từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 12/3/2019.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về tang vật: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,668 gam ma túy loại methamphetamine .

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo D sau khi nghe quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, bị cáo thừa nhận có tội và thừa nhận đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luật. Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1].Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Long Biên, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Thành phố hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên Tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2].Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn D: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 0h45 ngày 21/12/2018, tại phòng 134 nhà nghỉ Phước Đạt, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội, Nguyễn Văn D có hành vi tàng trữ trái phép 0,668gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác công an phường Bồ Đề, quận Long Biên phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi phạm tội lần này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại  Điều 249 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy bố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”,  là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo  là nguy hiểm cho xã  hội, bởi lẽ Nhà nước nghiêm cấm các hành vi mua bán, vận chuyển,  tàng trữ trái phép chất ma túy. Biết là Bộ luật hình sự nghiêm  cấm nhưng D vẫn cất giữ trái phép 0,668 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe. Từ ma túy còn sản sinh các loại tội phạm khác. Do đó với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải nghiêm trị.

 [3]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sư: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo D đã có 02 tiền án và 02 tiền sự. Bản án số 57/2010/HSST ngày 19/3/2010 TAND quận Hoàn Kiếm xử phạt 05 năm tù về tội cướp tài sản. Hạn tù tính từ ngày 04/5/2009. Ra trại ngày 04/10/2013. Đã đóng án phí theo Biên lai số 32584 ngày 19/3/2010 và  Bản án số 257/2014/HSST ngày 20/8/2014 TAND quận Hoàng Mai xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hạn tù tính từ ngày 03/5/2014. Ra trại ngày 03/8/2016. Đã nộp án phí theo Biên lai số 5904 ngày 20/8/2014. Tiền sự: Ngày 23/6/2003 Công an quận Hoàn Kiếm đưa vào trại giáo dưỡng và ngày 20/4/2006 xử phạt hành chính tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặc dù cả hai tiền án đều đã được xóa và hai tiền sự đều đã hết thời hiệu nhưng đó thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được cơ quan pháp luật giáo dục nhiều lần nhưng không có ý thức phấn đấu vươn lên để làm công dân tốt, là người có ích cho xã hội.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4].Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời  gian mới  có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời cũng tạo môi trường cai nghiện cho bị cáo bởi sự kiểm soát của pháp luật.

Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại methamphetamine khối lượng 0,668 gam và 01 bộ tẩu hút tự tạo dính ma túy loại methamphetamine và 01 vam phá khóa bằng kim loại dài 08cm và 01 tay công bằng kim loại cho tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại HTC màu đen lắp sim 0378819007 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo do vậy thấy cần trả lại cho bị cáo.

[6]. Các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông bán ma túy cho D, do D khai không biết nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên chưa đủ điều kiện để xác minh, làm rõ.

Đối với Nguyễn Văn Thắng, Đinh Hồng Nhung, Bùi Văn Cường khai không biết việc D tàng trữ trái phép chất ma túy, đến khi D để lên bàn thì Thắng, Nhung, Cường mới biết. Lời khai của Thắng, Nhung, Cường phù hợp với lời khai của D nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên không đặt vấn đề xử lý.

Đối với chủ nhà nghỉ Phước Đạt là anh Đỗ Văn Minh sinh năm 1978 và Nguyễn Hữu Linh, sinh năm 1995là nhân viên trông coi nhà nghỉ ca đêm ngày 21/12/2018, tài liệu điều tra thể hiện: anh Minh và anh Linh không biết Nguyễn Văn D thuê nhà nghỉ để sử dụng ma túy, do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra không đặt vấn đề xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Dream không BKS màu nâu, SK: LJCXCGLA106015288, SM: C10001292697, D khai ăn trộm tại đường Kim Ngưu, phường Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Hà Nội vào ngày 11/12/2018. Ngày 17/12/2018, D cho Thắng mượn làm phương tiện đi lại. Quá trình điều tra xác định anh Lỗ Văn Trung là chủ sở hữu. Anh Trung bán lại cho một người không quen biết. Cơ quan cảnh sát điều tra đã thân dẫn D đến địa điểm lấy trộm chiếc xe trên và được Công an phường Thanh Nhàn thông báo chưa tiếp nhận đơn trình báo liên quan đến chiếc xe trên. Kết quả giám định kết luận số khung, số máy là số nguyên thủy. Kết quả tra cứu xe máy không có dữ liệu xe máy vật chứng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên đã tách tài liệu liên quan đến chiếc xe máy trên để điều tra là có căn cứ.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật hình sự. Áp dụng các Điều 106, 135, 299, 326, 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử phạt: Nguyễn Văn D 25 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 12 năm 2018.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilong là ma túy loại methamphetamine khối lượng 0,668 gam và 01 bộ tẩu hút tự tạo dính ma túy loại methamphetamine hiện đang lưu tại Kho vật chứng Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập kho vật chứng ngày 18 tháng 2 năm 2019.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại HTC màu đen lắp sim 0378819007 đã qua sử dụng. Tịch thu tiêu hủy 01 vam phá khóa bằng kim loại dài 08cm và 01 tay công bằng kim loại. Tất cả hiện đang lưu tại Chi Cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 5 năm 2019.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu  200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2019/HSST ngày 21/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:146/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về