Bản án 146/2019/HS-PT ngày 20/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 146/2019/HS-PT NGÀY 20/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20/8/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 99/2019/TLPT-HS ngày 10/7/2019 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 40/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 16 tháng 7 năm 1984 tại tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện C, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Kế toán; Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không, Quốc tịch:Việt Nam; Con ông Nguyễn C (chết) và bà Trần Thị H (còn sống); có chồng Trương B và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị Thu T là nhân viên kế toán làm việc tại nhà bà Nguyễn Thị Lệ T2. Vào ngày 05/01/2019, nhìn thấy bà T2 cất tiền trong túi xách để dưới bàn làm việc nên T nảy sinh ý định trộm cắp. Lúc 16 giờ 14 phút cùng ngày, lợi dụng bà T2 rời khỏi bàn, T mở túi xách của bà T2 và lấy một cọc tiền (được cột bằng dây thun) rồi giấu vào trong bụng. Sau đó, T mặc áo khoác đi xuống phòng vệ sinh cất giấu số tiền trộm cắp dưới rổ nhựa đựng xà phòng rồi quay lại bàn làm việc. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, bà T2 kiểm tra túi xách, phát hiện bị mất tiền nên trình báo cơ quan công an. Công an phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đến nhà bà T2 làm việc, tiến hành kiểm tra phát hiện số tiền T cất giấu trong phòng vệ sinh, tổng cộng là 33.717.000 đồng (ba mươi ba triệu bảy trăm mười bảy ngàn đồng). Qua làm việc T thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản án sơ thẩm số: 40/2019/HS-ST ngày 04/6/2019 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Xử phạt: Nguyễn Thị Thu T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 06/6/2019, bị cáo Nguyễn Thị Thu T có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử quá nghiêm khắc so với hành vi phạm tội và điều kiện hoàn cảnh của bị cáo, kính xin HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện tiếp tục lao động nuôi con, trả nợ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung đơn kháng, đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện tiếp tục lao động nuôi con, trả nợ.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu T có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung: Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy rằng Bản án hình sự sơ thẩm số: 40/2019/HS-ST ngày 04/6/2019 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và xử phạt bị cáo với mức án 09 (sáu) tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là không cần thiết, vì bản thân bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thuộc loại nhất thời phạm tội; có nơi cư trú rõ ràng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; vì vậy, bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo tinh thần của Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo Điều 65 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là thể hiện tính nhân đạo của pháp luật XHCN.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị Thu T khai nhận: Lúc 16 giờ 14 phút ngày 05/01/2018 tại số nhà 52 đường D, phường E, quận F, thành phố Đà Nẵng nơi bị cáo đang làm việc, lợi dụng vào sự sơ hở của bà Nguyễn Thị Lệ T2 trong việc trông coi, quản lý tài sản, bị cáo lén lút thực hiện hành vi trộm cắp của bà T2 số tiền 33.717.000đ (Ba mươi ba triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng) mang xuống cất giấu trong phòng vệ sinh cho đến 17 giờ cùng ngày thì bị phát hiện thu giữ lại số tiền trên. Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HS-ST ngày 04/6/2019 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác luôn được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội, vì vậy việc các cơ quan tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm khởi tố, điều tra, truy tố ra trước pháp luật để xét xử đối với bị cáo là nhằm răn đe, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ TNHS sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015 và xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là chưa xem xét hết một cách khách quan toàn diện của vụ án, cũng như điều kiện hoàn cảnh gia đình và nhân thân bị cáo: Bởi lẽ, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thuộc loại nhất thời phạm tội; tài sản đã được thu hồi ngay chưa gây ra thiệt hại; bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải; bị cáo có con còn nhỏ; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, HĐXX thấy rằng bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS, và có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, và có khả năng cải tạo, việc không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm; vì vậy, bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS về án treo.

Từ những phân tích trên, HĐXX xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng có tác dụng răn đe, phòng ngừa, tạo điều kiện để bị cáo cải tạo, lao động làm người công dân tốt, là thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Do đó, HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo Điều 65 BLHS là phù hợp.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào Điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu T sửa Bản án sơ thẩm.

2. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Xử phạt: Nguyễn Thị Thu T: 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là: 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 20/8/2019.

Tuyên: Giao bị cáo Nguyễn Thị Thu T về UBND xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng tiếp tục theo dõi, giám sát, quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người thi hành án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể Quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3.Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế độ án treo cho bị cáo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2019/HS-PT ngày 20/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:146/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về