Bản án 145/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 145/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 41/2021/TLST-DS ngày 15 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2021/QĐXX-ST ngày 15 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thanh S, sinh năm 1980. Nơi cư trú: 226 ấp Mỹ HB, xã MHĐ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Vũ P, sinh năm 1980. Nơi cư trú: 226 ấp MHB, xã MHĐ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Đỗ Thanh S trình bày: Bà và ông P kết hôn vào năm 2003 có đăng ký kết hôn. Chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do ông P không lo làm ăn thường xuyên uống rượu, tham gia đá gà, nên vợ chồng thường hay tranh cải nhau, cả hai cố gắng tìm cách hàn gắn nhưng không được. Nhận thấy tình cảm không còn yêu cầu được ly hôn với ông P.

Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Đức D, sinh ngày 9/8/2004 và Nguyễn Đỗ Kiều L, sinh ngày 21/10/2007 hiện đang sống với bà, yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

Về quan hệ nợ chung: không có.

Bị đơn ông Nguyễn Vũ P đã được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gởi đến Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy định. Về ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân: Bà S và ông P kết hôn năm 2003, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng sống chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do ông P không lo làm ăn thường xuyên uống rượu và tham gia đá gà, nhận thấy tình cảm không còn, bà S yêu cầu ly hôn với ông P, ông P không có ý kiến phản hồi và không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên việc bà S yêu cầu xin ly hôn với ông P là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Đức D, sinh ngày 9/8/2004 và Nguyễn Đỗ Kiều L, sinhn ngày 21/10/2007 hiện đang sống với bà S, bà S yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng, các con chung do bà S chăm sóc nuôi dưỡng cuộc sống đã ổn định, ông P không có ý kiến phản hồi, nên bà S yêu cầu nuôi con là phù hợp. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn có nơi cư trú tại xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.

[2].Về nội dung tranh chấp Bà Đỗ Thanh S và ông Nguyễn Vũ P kết hôn năm 2003 có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo bà S trình bày, vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do chồng không lo làm ăn, đi làm có bao nhiêu thì xài bấy nhiêu, không phụ tiếp gia đình, thường xuyên uống rượu và tham gia đá gà, bà có khuyên nhiều lần nhưng ông P không thay đổi. Nhận thấy, tình cảm không còn, bà S yêu cầu ly hôn với ông P. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc bà S yêu cầu ly hôn và triệu tập ông P tham gia các phiên h p về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng ông P vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà S. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà S và ông P đã diễn ra trong thời gian dài, nguyên nhân do ông P không lo phụ tiếp gia đình, thường xuyên uống rượu và tham gia các tệ nạn xã hội không lo lắng trong gia đình, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày mâu thuẫn nhiều hơn và không còn chung sống từ năm 2020 đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà S xin ly hôn ông P.

[3] Về quan hệ con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Đức D, sinh ngày 9/8/2004 và Nguyễn Đỗ Kiều L, sinhn ngày 21/10/2007 hiện đang sống với bà S. Khi ly hôn bà S yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, các con chung do bà S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cuộc sống đã ổn định, nguyện v ng của các cháu D, cháu L được tiếp tục sống với bà S, trong quá trình giải quyết ông P cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu này của bà S. Vì vậy, nghĩ nên để bà S tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung là phù hợp với pháp luật.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà S không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Bà S không yêu cầu tòa án giải quyết.

[6] Về quan hệ nợ chung: Bà S trình bày không có.

[7] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà S phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thanh S xin ly hôn ông Nguyễn Vũ P.

Giấy chứng nhận kết hôn số 124, ngày 3 tháng 7 năm 2007 do Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Bà Đỗ Thanh S được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Vũ Đức D, sinh ngày 9/8/2004 và Nguyễn Đỗ Kiều L, sinhn ngày 21/10/2007. Ông Nguyễn Vũ P không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Đỗ Thanh S cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: các bên không yêu cầu giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Ghi nhận việc bà S xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì bà S, ông P phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Đỗ Thanh S phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0009413 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 15/01/2021.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:145/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về