Bản án 145/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 145/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON 

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 354/2020/TLST-HNGĐ, ngày 19 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 93/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Thu H, sinh năm 1987 Địa chỉ: Đường N, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc V, sinh năm 1985 Địa chỉ: Thôn B, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Bùi Thị Thu H trình bày:

Bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 28/6/2013.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Trong cuộc sống hôn nhân thì bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V phát sinh nhiều mâu thuẫn, cải vã nhau. Nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, không chia sẽ và yêu thương nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng bị sứt mẽ. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể kéo dài, cuộc sống chung không đem lại hạnh phúc cho cả hai, mục đích hôn nhân không đạt được. Bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V đã sống ly thân nhau. Bà Bùi Thị Thu H xác định không còn tình cảm với ông Nguyễn Quốc V nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Nguyễn Quốc V.

Về con chung: Bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V có 01 con chung là cháu Nguyễn Quốc T, sinh ngày 11/12/2015. Hiện nay cháu Nguyễn Quốc T đang ở với bà Bùi Thị Thu H nên bà H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Quốc T cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Bùi Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Bùi Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải Bị đơn ông Nguyễn Quốc V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông Nguyễn Quốc V vắng mặt không tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Bùi Thị Thu H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Quốc V và giải quyết việc nuôi con chung, đây là vụ án về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con”. Bị đơn ông Nguyễn Quốc V cư trú tại thôn B, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho bị đơn nhưng bị đơn không tham gia tố tụng. Tại phiên tòa nguyên đơn bà Bùi Thị Thu H vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn ông Nguyễn Quốc V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 28/6/2013 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Theo bà Bùi Thị Thu H trình bày, sau khi kết hôn thì cuộc sống chung giữa bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V bất đồng về quan điểm sống, không chia sẽ và yêu thương nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng bị sứt mẽ. Bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V đã sống ly thân nhau.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương, nơi bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V chung sống. Đại diện chính quyền địa phương cho biết: “Bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, trong thời gian chung sống thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau. Bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V đã sống ly thân nhau. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V đã trầm trọng, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật”.

Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên, hiện bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V đã sống ly thân, đã thể hiện mâu thuẫn giữa bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không có ý định hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Bùi Thị Thu H.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống bà Bùi Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc V có 01 con chung là cháu Nguyễn Quốc T, sinh ngày 11/12/2015. Hiện cháu Nguyễn Quốc T đang sống với mẹ là bà Bùi Thị Thu H. Bà Bùi Thị Thu H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Quốc T. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình giao con chung là cháu Nguyễn Quốc T, sinh ngày 11/12/2015 cho mẹ là bà Bùi Thị Thu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Bùi Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Bùi Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Nguyên đơn bà Bùi Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định, bị đơn ông Nguyễn Quốc V không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Bùi Thị Thu H.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị Thu H được ly hôn với ông Nguyễn Quốc V.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Quốc T, sinh ngày 11/12/2015 cho bà Bùi Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Ông Nguyễn Quốc V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Bùi Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Bùi Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Bà Bùi Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí mà bà Bùi Thị Thu H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0007903 ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:145/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về