Bản án 145/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 145/2020/DS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 106/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 5 năm 2020, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2020/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 19xx (có mặt).

Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện Đ, tỉnh G.

- Bị đơn: Trần Thị Hồng N, sinh năm 19xx (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện Đ, tỉnh G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo Đơn khởi kiện ngày 25/4/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ trình bày:

Ngày 15/9/2016 âm lịch, ông cho chị N vay số tiền 10.000.000 đồng, thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất 03%/tháng. Khi vay hai bên có làm “Giấy mượn tiền” và chị Ni có ký tên. Sau đó, chị N trả lãi đến tháng 7/2017 âm lịch thì ngưng. Ngày 15/7/2017 âm lịch, ông cho chị N vay tiếp 30.000.000 đồng thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất 03%/tháng. Khi vay hai bên có làm “Giấy mượn tiền” và chị Ni có ký tên. Sau đó, chị N không trả vốn lãi cho ông. Mặc dù, ông đã nhiều lần tìm chị N đòi nợ nhưng chị N cố tình trốn tránh. Nay ông yêu cầu chị N trả số tiền vốn của 02 lần vay là 40.000.000 đồng và tiền lãi tính từ tháng 7/2017 âm lịch đến tháng 4/2020 âm lịch là 33 tháng, lãi suất là 01%/tháng, thành tiền 13.200.000 đồng, tổng cộng vốn lãi là 53.200.000 đồng, trả khi án có hiệu lực pháp luật.

* Bị đơn chị Trần Thị Hồng N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng theo quy định nhưng chị N đều vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Theo nội dung đơn khởi kiện và lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử xác định tranh chấp giữa ông Đ và chị N là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Chị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt chị N.

[3] Về yêu cầu khởi kiện: Tại phiên tòa, ông Đ yêu cầu chị N có nghĩa vụ trả số tiền còn nợ là 40.000.000 đồng theo “Giấy mượn tiền” ngày 15/9/2016 âm lịch và ngày 15/7/2017 âm lịch, khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Xét thấy, vào ngày 15/9/2016 âm lịch, ông Đ cho chị N vay số tiền 10.000.000 đồng và ngày 15/7/2017 âm lịch, ông Đ cho chị vay tiếp số tiền 30.000.000 đồng, ông Đ có làm “Giấy mượn tiền” 15/9/2016 âm lịch và ngày 15/7/2017 âm lịch, chị N có ký tên vào 02 giấy mượn tiền này. Thỏa thuận thời gian vay là 12 tháng nhưng đến thời hạn trả nợ chị N cố tình trốn tránh, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông Đ. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được tống đất hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng chị N đều vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp chứng cứ gì để phản đối lại yêu cầu khởi kiện của ông Đ nên chị N phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, yêu cầu của ông Đ là có cơ sở, phù hợp với khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc chị N có nghĩa vụ trả lại ông Đ số tiền là 40.000.000 đồng.

[4] Về yêu cầu trả lãi, tại phiên tòa, ông Đ yêu cầu chị N trả tiền lãi tính từ tháng 7/2017 âm lịch đến tháng 4/2020 âm lịch là 33 tháng, lãi suất là 01%/tháng, thành tiền 13.200.000 đồng. Vì đối với số tiền vay 10.000.000 đồng chị N trả lãi đến tháng 7/2017 âm lịch thì ngưng, còn số tiền 30.000.000 đồng vay từ tháng 7/2017 âm lịch đến nay không trả lãi; đồng thời chị N không đến Tòa để trình bày ý kiến về lãi suất. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định đây là hợp đồng vay có lãi và xét thấy, yêu cầu của ông Đ là có cơ sở, phù hợp với khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự nên được chấp nhận, buộc chị N có nghĩa vụ trả cho ông Đ số tiền lãi là 13.200.000 đồng.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do chị N có nghĩa vụ trả nợ nên chị N phải chịu án phí theo quy định khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Ông Đ không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 463, khoản 1 Điều 466, khoản 1 Điều 468, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 2 và khoản 4 Điều 91, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Đ.

- Buộc chị Trần Thị Hồng N có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn Đ số tiền vốn và tiền lãi là 53.200.000 đồng (Năm mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng) khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày ông Đ có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị N chậm trả khoản tiền nêu trên thì hàng tháng chị N phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu án phí là 2.660.000 đồng (Hai triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng).

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Đ được quyền kháng cáo bản án đến Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang để xét xử phúc thẩm. Riêng chị N thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:145/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Đông - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về