TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 145/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (TP. B), tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 133/2019/HSST ngày 06 tháng 11 năm 2019 theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 138/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đình Đ; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1985; tại: Lâm Đồng; ĐKNKTT và nơi cư trú: số 277, Quốc lộ 20, thôn Đ Nga 2, xã Lộc Nga, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Nguyễn Văn Đỉnh và bà: Nguyễn Thị Lĩnh; vợ, Đinh Thị Vân Ny, sinh năm 1985 và có 01 người con tên Nguyễn Đình Khang Vy, sinh năm 2010; tiền sự: Ngày 4/6/2019 Đ bị UBND xã Lộc Nga áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 03 tháng kể từ ngày 22/5/2019; tiền án: Không; bị tạm giam từ ngày 01/8/2019 cho đến nay, có mặt.
- Bị hại:
1/ Huỳnh Thị Bích Tr; sinh năm 1993; trú tại: Thôn M, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; (Vắng mặt).
2/ Mai Văn T; sinh năm 1990; trú tại: Số K, đường T, phường B’, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; (Vắng mặt).
3/ Trương Quí T; sinh năm 1992; trú tại: Số A, đường số V, phường M, Quận I, TP. Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).
4/ Kim Thị O; sinh năm 1983; trú tại: Số N, đường C, xã L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; (Vắng mặt). 5/ Đặng Hồng T; sinh năm 1982; trú tại: Số B, đường Đ, Phường M, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; (Vắng mặt).
6/ Nguyễn Quốc Đ; sinh năm 1967; trú tại: Thôn T, xã L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; (Vắng mặt).
7/ Nguyễn Thị Th; sinh năm 1976; trú tại: Số E, đường L, Tổ K, phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; (Vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Đỗ Ngọc V; sinh năm: 1990; trú tại: Số K, đường L, Phường N, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; (Vắng mặt).
2/ Phạm Quang L; sinh năm 1988; trú tại: Số X, đường T, Phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Đình Đ là đối tượng nghiện ma túy, để có tiền mua ma túy sử dụng, Nguyễn Đình Đ đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn TP B, cụ thể như sau: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/7/2019, Đ đến quán cà phê cầm đồ D trên đường H, Phường V, TP. B, thấy chị Huỳnh Thị Bích Tr, trú tại: Thôn N, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, là người trông coi quán có 01 máy tính hiệu Samsung NP300, màu đen xám để trên bàn của quán, lợi dụng lúc chị Tr không để ý Đ đã lén lút trộm cắp và đi ra đường H, nhờ Lê Văn T, trú tại: Số Y, đường T, phường L, TP. B, điều khiển xe mô tô BS: 20B1-415.91 chở Đ đến tiệm máy tính của anh Mai Văn T, địa chỉ số K, đường T, phường B’, TP. B. Tại đây Đ nói T đứng ngoài xe đợi, còn mình đi vào cửa hàng bán máy tính. Trong khi bán máy tính lợi dụng sơ hở của nhân viên cửa hàng, Đ đứng dựa lưng vào tủ kính đựng máy vi tính rồi luồn tay vào lấy 01(một) máy tính hiệu DELL, màu xám đen giấu vào áo khoác. Lấy xong Đ mang máy tính ra để lên yên xe máy sau lưng T và lấy áo mưa T đang mặc che máy lại. Đ tiếp tục quay vào tiệm và cũng đứng dựa lưng vào tủ và dùng tay lấy thêm 01(một) máy tính nhãn hiệu DELL, màu xám đen, mang ra chỗ T để lên yên xe rồi che áo mưa lại. Sau đó Đ quay vào tiệm lấy tiền bán máy tính hiệu Samsung NP300 được 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng). Lấy tiền xong Đ đi ra nói T chở xuống ngã ba Đại Bình. Trên đường đi, T biết hai máy tính này là do Đ vừa trộm cắp được ở tiệm của anh T, nên T nói với Đ chia cho T một máy thì Đ đồng ý. Đ chia cho T một cái máy tính hiệu Dell – E6230, không gắn pin máy tính. T mang về đưa cho vợ là Nguyễn Thị Minh A cất giữ và nói là của bạn cho, hiện máy này chị A đã giao nộp cho Cơ quan điều tra. Còn 01 máy tính hiệu Dell-E5420, màu đen xám Đ mang đến tiệm máy tính Thuận Ch ở Quốc lộ 20, phường L để sạc pin đến sáng ngày 04/7/2019, Đ gặp bạn Nguyễn Thế Minh T, trú tại số I, đường N, Phường H, TP. B và nhờ T chở đến tiệm máy tính Thuận Ch lấy máy tính trên rồi đem bán cho anh Phạm Quang L, trú tại số M, đường T, phường L, TP. B được số tiền 1.800.000đ (một triệu tám trăm ngàn đồng). Số tiền trên Đ mua ma túy sử dụng chung cùng với T.
Theo kết luận định giá số 73 ngày 09/7/2019 và số 96 ngày 22/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự TP. B: Máy tính hiệu: DELL- E6230 và máy tính hiệu DELL- E5420, mỗi máy trị giá: 3.600.000đ (ba triệu sáu trăm ngàn đồng); máy tính Samsung NP300 trị giá: 1.250.000đ (một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng). Tổng giá trị tài sản Đ trộm cắp 03 máy tính trên là : 8.450.000đ (tám triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng).
Quá trình điều tra Nguyễn Đình Đ đã khai nhận trong khoảng thời gian từ tháng 5/2019 đến tháng 7/2019 Đ còn thực hiện 05 vụ trộm cắp như sau:
Vụ thứ 1: Vào khoảng 21 giờ đầu tháng 5/2019 một mình Đ đến quán cà phê số nhà N, đường T, phường L, TP. B phát hiện 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung Galasy- Note 8, màu đen của anh Trương Qúi T, trú tại: Số A, đường số V, phường T, Quận M, TP. Hồ Chí Minh, Đ đã lén lút trộm cắp chiếc điện thoại nêu trên rồi mang đến tiệm Viễn Mobile ở số K, đường T, phường B’, TP. B do Đỗ Ngọc V, trú tại; Số Y, đường L, phường K, TP. B, tỉnh Lâm Đồng làm chủ bán được số tiền:
5.000.000đ (năm triệu đồng), để mua ma túy sử dụng. Anh V sau khi mua điện thoại di động từ Đ không biết tài sản trên do phạm tội mà có đã bán cho khách hàng nên không thu hồi được.
Theo kết luận định giá số: 96 ngày 22/8/2019 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. B: Điện thoại hiệu Samsung Galasy- Note 8, màu đen của anh T trị giá 9.800.000đ (chín triệu tám trăm ngàn đồng).
Vụ thứ 2: Sáng ngày 25/5/2019, Đ đến nhà chị Kim Thị O, trú tại : Số V, đường C, xã L, TP. B chơi, thấy trên tủ ti vi của phòng khách nhà chị O có để chiếc điện thoại Samsung Galasy- J3, màu đồng, Đ lấy điện thoại trên và tiếp tục đem bán cho anh Đỗ Ngọc V được số tiền 600.000đ (sáu trăm ngàn đồng), mua ma túy sử dụng. Khi mua điện thoại di động từ Đ, anh V không biết được tài sản trên do phạm tội mà có, đã bán cho khách hàng nên không thu hồi được.
Theo kết luận định giá số K ngày 22/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. B: Điện thoại hiệu Samsung Galasy- J3, màu đồng của chị O trị giá 1.360.000đ (một triệu ba trăm sáu mươi ngàn đồng).
Vụ thứ 3: Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 08/6/2019, Đ đi đến quán cà phê do anh Đặng Hồng T, trú tại : Số G, đường Đ, Phường C, TP. B, tỉnh Lâm Đồng làm chủ, lợi dụng sơ hở của anh T, Đ đi đến bàn của quán lấy 01(một) điện thoại di động hiệu OPPO- Max.5.5, màu xám của anh T, đến bán cho Đỗ Ngọc V được số tiền 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng), mua ma túy sử dụng, anh V sau khi mua điện thoại di động từ Đ, đã bán cho khách hàng nên không thu hồi được.
Theo kết luận định giá số: 96 ngày 22/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. B: Điện thoại hiệu OPPO- Max.5.5, màu xám anh T là:
2.358.000đ(hai triệu ba trăm năm mươi tám ngàn đồng).
Vụ thứ 4: Khoảng 13 giờ ngày 9/7/2019, Đ đến nhà anh Nguyễn Quốc Đ, trú tại: Thôn T, xã L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng, thấy trên bàn ở phòng khách có để chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO-A3S, màu xám, Đ lấy chiếc điện thoại mang đến bán cho Đỗ Ngọc V được số tiền 1.400.000đ (một triệu bốn trăm ngàn đồng), mua ma túy sử dụng. Anh V đã bán cho khách hàng nên không thu hồi được.
Theo kết luận định giá số 96 ngày 22/8/2019 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. B: Điện thoại hiệu OPPO-A3S, màu xám của anh Đ là: 1.800.000đ (một triệu tám trăm ngàn đồng).
Vụ thứ 5: Khoảng 16 giờ ngày 17/ 7/2019, Đ gặp Đặng Minh Tr (Tr Trọc), trú tại : Số N, đường Y, Tổ V, phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng điều khiển xe mô tô hiệu Dream trên đường, Tr rủ Đ đến nhà chị Nguyễn Thị Th, trú tại : số K ,đường L, Tổ N, phường L trộm cắp, Đ đứng ngoài cảnh giới còn Tr vào nhà chị Th lấy tài sản. Khi ra Tr nói với Đ chỉ lấy được 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung- Galasy-Grand- Prime, màu đồng, của chị Th. Đ mang chiếc điện thoại trên bán cho Đỗ Ngọc V được số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng), mua ma túy sử dụng. Cơ quan điều tra đã thu hồi được tài sản trên.
Theo kết luận định giá số: 96 ngày 22/8/2019 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. B: Điện thoại hiệu Samsung- Galasy-Grand-Prime, màu đồng của chị Th là: 1.560.000đ (một triệu năm trăm sáu mươi ngàn đồng).
Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu hồi được gồm: 01 máy vi tính của chị Tr, 02 máy vi tính của anh T, 01 điện thoại di động của chị Th là tài sản mà Đ trộm cắp và đã trả lại cho chủ sở hữu.
Hiện anh Phạm Quang L yêu cầu được bồi thường số tiền đã mua máy tính là:
1.800.000đ; anh Trương Quí T yêu cầu được bồi thường chiếc điện thoại di động bị mất trộm trị giá là: 9.800.000đ; chị Kim Thị O yêu cầu được bồi thường chiếc điện thoại di động bị mất trộm trị giá là: 1.360.000đ; chị Huỳnh Thị Bích Tr, anh Mai Văn T, anh Đặng Hồng T, anh Nguyễn Quốc Đ, anh Đỗ Ngọc V và chị Nguyễn Thị Th không yêu cầu bồi thường về dân sự.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu, không thắc mắc khiếu nại đối với nội dung bản cáo trạng, bị cáo nhận thức hành vi nêu trên của mình là vi phạm pháp luật.
Bản Cáo trạng số 141/CT-VKSBL ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Đình Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa Đ diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong thời gian từ tháng 5/2019 đến tháng 7/2019, Nguyễn Đình Đ đã nhiều lần thực hiện trộm cắp tài sản trên địa bàn TP. B, Lâm Đồng gây thiệt hại về tài sản với tổng trị giá là: 25.328.000đ (hai mươi lăm triệu ba trăm hai mươi tám ngàn đồng). Hành vi của Nguyễn Đình Đ là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, vi phạm pháp luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đ từ 24 đến 30 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho những người bị hại gồm: Anh Phạm Quang L số tiền 1.800.000 đồng, anh Trương Quí T số tiền 9.800.000 đồng, chị Kim Thị O số tiền 1.360.000 đồng. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1].Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết đinh của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2019 đến tháng 7/2019 Nguyễn Đình Đ đã thực hiện 07 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố B với tổng giá trị là 25.328.000đ (hai mươi lăm triệu ba trăm hai mươi tám ngàn đồng), trong đó có 03 lần giá trị tài sản trên 2.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy Đ tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xét thấy: Cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian mới có tính răn đe, giáo dục.
Đối với Lê Văn T có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. B đã ra quyết định khởi tố và tách ra nhập với vụ án Trộm cắp tài sản, do vậy không đề cập xử lý trong vụ án này.
[3]. Về trách nhiệm dân sự: anh Phạm Quang L yêu cầu được bồi thường số tiền: 1.800.000đ; anh Trương Quí T yêu cầu được bồi thường số tiền: 9.800.000đ; chị Kim Thị O yêu cầu được bồi thường số tiền: 1.360.000đ. Đây là yêu cầu chính đáng phù hợp quy định của pháp luật cần chấp nhận buộc bị cáo phải bồi thường số tiền nêu trên cho bị hại. Đối với chị Huỳnh Thị Bích Tr, anh Mai Văn T, Đặng Hồng T, Nguyễn Quốc Đ, Đỗ Ngọc V và Nguyễn Thị Th không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét.
[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy Đ của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1/ T bố bị cáo Nguyễn Đình Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Đ 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2019.
2/ Về Dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 589 Bộ luật Dân sự: Buộc Nguyễn Đình Đ bồi thường cho anh Phạm Quang L số tiền: 1.800.000đ; anh Trương Quí T số tiền: 9.800.000đ; chị Kim Thị O số tiền: 1.360.000đ.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3/ Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326 của Quốc Hội quy Đ về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 648.000đ (Sáu trăm bốn mươi tám ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo, riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án 145/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 145/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về