Bản án 145/2017/HS-ST ngày 25/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 145/2017/HS-ST NGÀY 25/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 144/2017/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 144/2017/HSST- QĐ ngày 11 tháng 12 năm 2017, đối với bị cáo:

Lê Tiến Đ, sinh năm 1991; nơi cư trú: Tổ dân phố C, thị trấn V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 11/12; bố đẻ Lê Hùng B, mẹ đẻ Lê Thị L, vợ là Hoàng Thị H và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/8/2017 cho đến nay (có mặt).

Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Hoàng Văn V, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn C, xã K, huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Lê Tiến Đ bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 25/8/2017, tại phòng 202 nhà nghỉ Nam Thành, thuộc tổ dân phố Vĩnh Thịnh Đông, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và bắt quả tang Lê Tiến Đ có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng nghiện là Hoàng Văn V.

Tang vật thu giữ gồm có: Thu trong túi quần đang mặc của Hoàng Văn V 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa các chất hạt tinh thể dạng đá, V khai nhận đó là gói ma túy vừa mua được của Đ với giá 500.000đ, vật chứng được niêm phong có ký hiệu A1. Thu tại túi quần bên phải của Lê Tiến Đ số tiền 500.000đ, Đ khai nhận đó là tiền vừa bán ma túy cho V mà có. Thu của Đ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawel màu vàng, đã qua sử dụng và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, màu trắng nâu, biển kiểm soát: 88G1-228.99, đã qua sử dụng. Đ tự giao nộp 01 gói nhỏ bên trong có các hạt tinh thể dạng đá, Đ khai nhận đây là ma túy của Đ đem đi để bán nhưng chưa kịp bán, vật chứng được niêm phong có ký hiệu A2.

Tại kết luận giám định số: 951 ngày 29/8/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,2050 gam. Khối lượng Methamphetamine có trong 0,2050 gam mẫu là 0,1610 gam. Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A2 là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,1428 gam. Khối lượng Methamphetamine có trong 0,1428 gam mẫu là 0,1051 gam”.

Về nguồn gốc 02 gói ma túy thu giữ, Đ khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 25/8/2017, Đ mua của 01 người đàn ông không quen biết ở khu vực bến xe khách Vĩnh Yên với giá 600.000đ. Mục đích mua để bán cho đối tượng nghiện để kiếm lời và sử dụng cho bản thân.

Ti Cáo trạng số: 146/KSĐT-MT ngày 28/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Lê Tiến Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo Lê Tiến Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Văn V vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đã khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 ngày 25/8/2017, V có điện thoại trao đổi với Lê Tiến Đ để mua 01 gói ma túy đá với giá 500.000đ với mục đích để sử dụng. Khi hai bên đang trao đổi mua bán ma túy với nhau tại phòng 202 nhà nghỉ Nam Thành, thuộc tổ dân phố Vĩnh Thịnh Đông, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc thì bị Công an bắt quả tang và thu giữ, niêm phong toàn bộ tang vật (bút lục 20 và từ bút lục số 61 - 66).

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên (bút lục 20 và từ bút lục 70 - 74).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Tiến Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,1311 gam ma túy và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định; tịch sung quỹ Nhà nước của bị cáo Lê Tiến Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawel và số tiền 500.000đ; xác nhận Cơ quan điều tra đã thu và trả lại cho bà Nguyễn Thị L 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda biển kiểm soát: 88G1-228.99 là hợp pháp.

Bị cáo Lê Tiến Đ không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Lê Tiến Đ tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 22 giờ ngày 25/8/2017, tại phòng 202 nhà nghỉ Nam Thành, thuộc tổ dân phố Vĩnh Thịnh Đông, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Lê Tiến Đ có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng nghiện là Hoàng Văn V thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và bắt quả tang. Tang vật thu giữ được giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 0,3478 gam. Khối lượng Methamphetamine có trong 0,3478 gam mẫu là 0,2661 gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Tiến Đ đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ 02 đến 07 năm tù.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; gây ra một lớp người nghiện trong xã hội làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Tc khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án tiền sự, nhưng hành vi được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ là thu lời bất chính, hiện tại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Đi với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Văn V là đối tượng nghiện ma túy, mục đích mua túy để sử dụng; hành vi tàng trữ chất ma túy ở thể rắn có khối lượng dưới một gam chưa đủ định lượng cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền phạt 1.500.000đ là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với người bán ma túy cho Lê Tiến Đ tại khu vực bến xe Vĩnh Yên. Qúa trình điều tra Đạt khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là đúng pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản và thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Đối với 0,1311 gam ma túy và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu huỷ. Đối với số tiền 500.000đ và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawel đã thu giữ của bị cáo Lê Tiến Đ, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đó là tài sản liên quan đến tội phạm và phương tiện để sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda biển kiểm soát: 88G1-228.99, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là chị Trương Thúy N, sinh năm 1992, ở xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, chị N giao xe máy cho bà Nguyễn Thị L (là mẹ đẻ) quản lý và sử dụng. Ngày 25/8/2017, Đ hỏi mượn xe của bà Lương để đi chơi, sau đó sử dụng xe vào việc đi bán trái phép chất ma túy bà L không biết. Ngày 08/9/2017, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy nêu trên cho bà L, nay bà L không yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Tiến Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Tiến Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 25/8/2017).

Áp dụng khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawel đã thu giữ của bị cáo Lê Tiến Đ; tịch thu tiêu hủy 0,1311 gam ma túy và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định (Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 04/12/2017).

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Tiến Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2017/HS-ST ngày 25/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:145/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về