TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 144/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Trong ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2021/TLST-DS ngày 15 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2021/QĐXX-ST ngày 15 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Kim T, sinh năm 1975. ĐK HKTT: số 464 ấp ML, xã MA, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Nơi cư trú: ấp 3, xã BT, huyện TB, tình Đồng Tháp. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1980. Nơi cư trú: ấp 226 ấp ML, xã MA, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Bùi Thị Kim T trình bày: Bà và ông P quen biết và kết hôn với nhau vào năm 1998 có đăng ký kết hôn. Chung sống đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do ông P không tôn trọng vợ con, nên vợ chồng thường hay tranh cải nhau, cả hai cố gắng tìm cách hàn gắn nhưng không được, đến cuối năm 2020 thì không còn chung sống với nhau. Nhận thấy tình cảm không còn yêu cầu được ly hôn với ông P.
Về con chung: vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 23/6/1999 đã trưởng thành, Nguyễn Văn T1, sinh ngày 21/10/2001 đã trưởng thành và Nguyễn Văn T2, sinh ngày 02/8/2009 hiện đang sống với ông P, khi ly hôn đồng ý để ông P tiếp tục nuôi con chung, bà không cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.
Về quan hệ nợ chung: không có.
Bị đơn ông Nguyễn Văn P đã được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gởi đến Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy định. Về ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân: Bà T và ông P kết hôn và có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng sống chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do, bất đồng quan điểm, nhận thấy tình cảm không còn, bà T yêu cầu ly hôn với ông P, ông P không có ý kiến phản hồi và không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên việc bà T yêu cầu xin ly hôn với ông P là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 23/6/1999 đã trưởng thành, Nguyễn Văn T1, sinh ngày 21/10/2001 đã trưởng thành và Nguyễn Văn T2, sinh ngày 02/8/2009 hiện đang sống với ông P, khi ly hôn bà T đồng ý để ông P tiếp tục nuôi con chung, bà không cấp dưỡng nuôi con, ông P không có ý kiến phản hồi, vì vậy nghĩ nên để ông P tiếp tục nuôi cháu Thọ là phù hợp. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đề cập giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1].Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn có nơi cư trú tại xã Mỹ An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do.
Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.
[2].Về nội dung tranh chấp Bà Bùi Thị Kim T và ông Nguyễn Văn P kết hôn năm 1998 có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo bà T trình bày, vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do chồng hay ghen tuông vô cớ, không tôn trọng vợ con, nên từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra bất hòa và cải nhau. Nhận thấy, tình cảm không còn, bà T yêu cầu ly hôn với ông P. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc bà T yêu cầu ly hôn và triệu tập ông P tham gia các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng ông P vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà T. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà T và ông P đã diễn ra trong thời gian dài, nguyên nhân ông P không tin tưởng bà T trong tình cảm vợ chồng dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày mâu thuẫn nhiều hơn, cả hai cũng không có biện pháp thay đổi để vợ chồng hòa hợp đến cuối năm 2020 thì không còn chung sống với nhau đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T xin ly hôn ông P.
[3] Về quan hệ con chung: vợ chồng có 03 con chung tên Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 23/6/1999 đã trưởng thành, Nguyễn Văn T1, sinh ngày 21/10/2001 đã trưởng thành và Nguyễn Văn T2, sinh ngày 02/8/2009 hiện đang sống với ông P, khi ly hôn bà T đồng ý để ông P tiếp tục nuôi con chung, bà không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, 02 cháu Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 23/6/1999 đã trưởng thành, Nguyễn Văn T1, sinh ngày 21/10/2001 đã trưởng thành nên không đề cập đến vấn đề nuôi con và cấp dưỡng nuôi con, đối với cháu Nguyễn Văn T2 hiện đang sống với ông P cuộc sống đã ổn định, trong quá trình giải quyết ông P cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu này của bà T. Vì vậy, nghĩ nên để ông P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Thọ là phù hợp với pháp luật.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do ông P không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[5] Về quan hệ tài sản chung: Bà T không yêu cầu tòa án giải quyết.
[6] Về quan hệ nợ chung: Bà T trình bày không có.
[7] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Kim T xin ly hôn ông Nguyễn Văn P.
Giấy chứng nhận kết hôn số 10, ngày 23 tháng 6 năm 1998 do Ủy ban nhân dân xã Tân Bình, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp cấp không còn giá trị pháp lý.
- Về quan hệ con chung: Ông Nguyễn Văn P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Văn T2, sinh ngày 02/8/2009. Bà Bùi Thị Kim T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Nguyễn Văn P cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
- Về quan hệ tài sản chung: các bên không yêu cầu giải quyết.
- Về quan hệ nợ chung: Ghi nhận việc bà T xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì bà T, ông P phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Bùi Thị Kim T phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0009412 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 15/01/2021.
Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 144/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 144/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về