Bản án 144/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 144/2020/HS-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

 Ngày 23 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 163/2020/HSST ngày 02 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2020/QĐXX-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh M, sinh ngày 01-12-1977 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 221/37 đường T, Phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Cha: Nguyễn Văn M, sinh năm 1942 (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị Kim X, sinh năm 1946 (đã chết); Vợ: Phan Thị Ngọc Y, sinh năm 1990 và 01 người con, sinh năm 2020; Tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 31-8-2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu tuyên phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2012/HSST. Ngày 08-12-2017, chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt ngày 03 tháng 4 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an TP.Vũng Tàu Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03-4-2020, tại nhà nghỉ H, số A37 đường C, phường N, TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Công an phường N, thành phố Vũng Tàu bắt quả tang Nguyễn Minh M đang tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine), đồng thời thu giữ vật chứng của vụ án.

Sau khi lập hồ sơ ban đầu, Công an phường N, TP.Vũng Tàu đã chuyển hồ sơ, đối tượng cùng vật chứng của vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.Vũng Tàu để điều tra theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Nguyễn Minh M khai nhận: M sử dụng ma túy đá (Methamphetamine) được khoảng một năm. Số ma túy bị cơ quan chức năng thu giữ là của M. M mua của một người đàn ông tên V (không rõ lai lịch) tại khu vực bến xe Vũng Tàu với giá 300.000 đồng về sử dụng dần thì bị bắt quả tang như trên.

Lời khai của Nguyễn Minh M phù hợp với chứng cứ thu thập được và phù hợp với lời khai của anh Nguyễn Thái B và chị Tô Thị Hoa L là người chứng kiến.

Tại Bản kết luận giám định số 175/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 10 tháng 4 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, kết luận:

Mẫu chất kết tinh không màu trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu vàng, có hình dấu của Công an phường N, TP.Vũng Tàu gửi đến giám định có khối lượng 0,3261 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Cơ quan chức năng thu giữ vật chứng và tài sản gồm:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu SHARK; màu nâu, biển số 54U4 -3004; số máy:

VMVVBAD - 007148; số khung BA12AD9D - 007148.

- 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine (01 phong bì niêm phong số 175/GĐMT-PC09 (Đ2) ngày 10 tháng 4 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu);

- 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, số Imel: 013332006877007 (màn hình bị bể).

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell; màu đỏ đen, số Imel 1: 810033600649878; số Imel 2: 810034600649878.

Số vật chứng và tải sản trên được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Vũng Tàu chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự TP.Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý. Riêng đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu SHARK; màu nâu, biển số 54U4 - 3004, sau khi xác minh, xác định ông Nguyễn Hải H, sinh năm 1958. HKTT:

165/15 đường N, phường S, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh là chủ sở hữu, ông H không biết việc M sử dụng xe đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.Vũng Tàu đã ra quyết định số 50/QĐ-Đ4 ngày 12-6-2020 trả lại xe cho ông H.

Bản cáo trạng số 174/CT-VKSTPVT ngày 01-7-2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Nguyễn Minh M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi Nguyễn Minh M thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điêm s khoản 1 Điêu 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Minh M mức án từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật trong vụ án; Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, số Imel: 013332006877007 (màn hình bị bể) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell; màu đỏ đen, số Imel 1: 810033600649878; số Imel 2: 810034600649878.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiêm sát truy t ố đúng tội danh và không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, Nguyễn Minh M đã khai nhận toan bô hanh vi pham tôi cua minh . Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp , Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xac đinh:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03-4-2020, tại nhà nghỉ H, số A37 đường C, phường N, , TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Công an phường N, TP.Vũng Tàu bắt quả tang Nguyễn Minh M đang tàng trữ 0,3261 gam Methamphetamine. Số ma túy này M tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Như vậy, hành vi Nguyễn Minh M thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là nguy hiêm cho xã h ội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật hình sự bảo vệ; là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực hành vi, là người sử dụng ma túy nên biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Đối với người phụ nữ Tô Thị Hoa L đến nhà nghỉ theo yêu cầu của M, M và L đều thừa nhận số ma túy thu giữ là của M mua và cất giấu để M sử dụng dần nên không có căn cứ khởi tố L về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với người đàn ông tên V đã bán ma túy cho Nguyễn Minh M không rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.Vũng Tàu tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Ngày 31-8-2012, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu tuyên phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 08-12-2017, chấp hành xong hình phạt tù chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do lỗi cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khân khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine (01 phong bì niêm phong số 175/GĐMT-PC09 (Đ2) ngày 10 tháng 4 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) là chất nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, số Imel: 013332006877007 (màn hình bị bể) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell; màu đỏ đen, số Imel 1: 810033600649878; số Imel 2: 810034600649878 là tài sản không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bô: Nguyễn Minh M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điêm s Khoản 1 Điêu 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Nguyễn Minh M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 4 năm 2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine (01 phong bì niêm phong số 175/GĐMT-PC09 (Đ2) ngày 10 tháng 4 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu);

- Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại Iphone 5 màu đen, số Imel: 013332006877007 (màn hình bị bể) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell; màu đỏ đen, số Imel 1: 810033600649878; số Imel 2: 810034600649878.

Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 162/BB.THA ngày 01-7-2020.

4. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm ngàn đông) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 144/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:144/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về