Bản án 144/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 144/2019/HS-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 135/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

Đường Chí M; sinh năm 1975, tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Số 58/7, ấp Thới Tây 2, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đường H và bà Phan Thị T; có vợ là Lê Thị H và có 02 con; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 19/3/2019 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 19/3/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Bến Cát, phối hợp với Công an phường Mỹ Phước tuần tra đoạn đường nối liền giữa đường D2 và đường Quốc lộ 13 phát hiện Đường Chí M có biểu hiệu nghi vấn, nên lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính. Khi nhìn thấy lực lượng Công an tiến đến thì M nhặt 01 khẩu trang y tế màu xanh quấn xung quanh gói thuốc lá hiệu JET màu trắng để sẵn tại chậu cây kiểng bên đường D2, rồi chạy vào Công ty TNHH Phú Thiện FS và ném xuống nền sân bằng xi măng của Công ty, nhưng bị lực lượng Công an bắt giữ. Tiến hành kiểm tra, phát hiện bên trong khẩu trang y tế màu xanh có 01 gói thuốc lá hiệu JET và 01 đoạn ống thủy tinh; bên trong gói thuốc là hiệu JET có 01 (một) bịch nylon miệng kéo dính, bên trong bịch nylon miệng kéo dính có 16 (mười sáu) bịch nylon hàn kín chứa chất màu trắng dạng tinh thể, M khai nhận đó là ma túy đá và dụng cụ sử dụng ma túy của M. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản quả tang, niêm phong thu giữ:

+ 01 bịch nylon miệng kéo dính có 16 bịch nylon hàn kín chứa chất màu trắng dạng tinh thể;

+ 01 gói thuốc là hiệu JET màu trắng;

+ 01 khẩu trang y tế màu xanh;

+ 01 đoạn ống thủy tinh;

+ 01 ĐTDĐ hiệu Nokia 1280 màu đen sim số 0375.996.011 của Đường Chí M.

Tại Cơ quan điều tra, M khai nhận là đối tượng sử dụng ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Vào lúc 07 giờ ngày 18/3/2019, M đang ở nhà nghỉ 379 thuộc xã An Điền, thị xã Bến Cát, thì có người thanh niên quen biết ngoài xã hội tên L, khoảng 30 tuổi (không rõ lai lịch) gọi điện thoại vào số 0375.996.011 của M (M không nhớ rõ số điện thoại của L). Người này kêu đến khu vực trạm xe buýt trước Trường Tiểu học Mỹ Phước trên đường Quốc lộ 13 thuộc khu phố 4, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát gặp L để lấy tiền đi mua ma túy giùm L, M đồng ý (trước đây M từng có vài lần đi mua ma túy giùm cho L và được L trả công bằng việc cho sử dụng ma túy và tiền).

M thuê người chở bằng mô tô đến địa chỉ hẹn gặp L. Tại đây L đưa cho M số tiền 1.100.000 đồng, gồm 07 tờ tiền Việt Nam, trong đó có 04 tờ mệnh giá 200.000 đồng và 03 tờ mệnh giá 100.000 đồng. Đến 19 giờ 00 cùng ngày, người thanh niên quen biết ngoài xã hội tên Tâm, khoảng 30 tuổi (không rõ lai lịch) gọi điện thoại cho M (có số điện thoại cuối “588”), kêu M đi đến khu vực cầu Thới An thuộc khu phố 6, phường Thới Hòa để lấy ma túy đưa cho L. M tiếp tục thuê người chở bằng mô tô đến khu vực cầu Thới An chờ Tâm.

Đến khoảng 20 giờ 00 cùng ngày, T điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu xanh (không rõ nhãn hiệu xe và biển số xe) đến đón M đi đến quán cà phê không rõ tên (đối diện văn phòng khu phố 4, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát) để uống cà phê. Ngồi uống cà phê được khoảng 30 phút, T kêu M ngồi chờ ở quán còn T dùng xe mô tô chạy đi đâu không rõ. Đến 23 giờ 00 phút cùng ngày, T quay lại quán cà phê, tại đây T lấy ra một ít ma túy đá cùng sử dụng với M. Sau khi sử dụng ma túy xong, T nói với M là để ma túy ở chỗ cũ (M biết được chỗ cũ là để ở chậu cây kiểng bên đường D2 trước cổng nhà M, vì trước đây M cũng đã từng giúp T đi giao ma túy cho L vài lần). M đưa cho T số tiền 1.100.000 đồng (bao gồm 04 tờ mệnh giá 200.000 đồng và 03 tờ mệnh giá 100.000 đồng). Sau đó, M đi bộ đến chỗ chậu kiểng bên đường D2 trước cổng nhà M thì thấy có 01 khẩu trang y tế màu xanh quấn xung quanh gói thuốc lá hiệu JET màu trắng (M biết đó là số ma túy T bỏ lại để nhờ M giao cho L). M ngồi kế bên chậu cây kiểng có khẩu trang y tế màu xanh quấn quanh gói thuốc lá hiệu JET màu trắng có chứa ma túy để chờ L đến lấy, thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Việc M giúp T giao ma túy cho L, T hứa sẽ cho M số tiền 700.000 đồng và cho sử dụng ma túy chung.

Theo Kết luận giám định số 250/MT-PC09 ngày 27/03/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định:

- Mẫu tinh thể giám định đều là ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng (M1) = 1,6525 gam, (M2) = 3,3368 gam, (M3) = 3,1249 gam, (M4) = 3,0672 gam.

- Mẫu vật sau khi giám định được niêm phong có trọng lượng: (M1)= 1,4187 gam, (M2) = 3,2917 gam, (M3) = 3,0106, (M4) = 2,9309 gam.

Tại bản Cáo trạng số 155/CT-VKS ngày 15 tháng 8 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo mức án từ 06 năm đến 07 năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì thư dán kín số 250/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 10,6519 gam Methamphetamine; 01 đoạn ống thủy tinh, 01 gói thuốc lá hiệu Jet màu trắng, 01 khẩu trang y tế màu xanh, sim số 0375996011.

- Đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát. Bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của bản thân là sai trái, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 19/3/2019, bị cáo Đường Chí M đã có hành vi cất giấu 01 khẩu trang y tế bên trong có chứa 01 gói thuốc lá hiệu Jet và 01 đoạn ống thủy tinh. Qua kiểm tra, bên trong gói thuốc lá hiệu Jet có chứa 01 bịch nilon miệng kéo dính chứa 16 bịch nilon hàn kín chứa chất ma túy. M khai số ma túy trên là của M đi mua giùm cho L (không rõ lai lịch) và đang chờ L đến lấy thì bị Công an bắt giữ.

Theo Kết luận số 250/MT-PC09 ngày 27/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể là ma túy loại Methamphetamine, có trọng lượng M1=1,6525 gam; M2=3,3368 gam; M3=3,1249 gam; M4=3,0672 gam.

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, Cáo trạng số 155/CT-VKS ngày 15 tháng 8 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của Nhà nước. Bị cáo hoàn toàn biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Do đó, cần phải có một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và góp phần phòng ngừa tội phạm chung.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 bì thư dán kín số 250/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 11,1814 gam Methamphetamine; 01 đoạn ống thủy tinh, 01 gói thuốc lá hiệu Jet màu trắng, 01 khẩu trang y tế màu xanh, sim số 0375996011 cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[4] Ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Dường Chí M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Xử phạt bị cáo Đường Chí M 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/3/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy đối với: 01 bì thư dán kín số 250/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 10,6519 gam Methamphetamine; 01 đoạn ống thủy tinh; 01 gói thuốc lá hiệu Jet màu trắng; 01 khẩu trang y tế màu xanh và sim số 0375996011.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:144/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về