Bản án 144/2019/HS-ST ngày 07/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 144/2019/HS-ST NGÀY 07/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh ĐăkLăk , xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 111/2019/HSST ngày 04/5/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2019/QĐXXST-HS ngày 16/5/2019, và Quyết định hoãn phiên tòa số: 15/2019/HSST-QĐ ngày 31/5/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị H; Tên gọi khác: T; Sinh ngày 17 tháng 7 năm: 1987; Tại: tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: Thôn 3, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Nghề nghiệp:

Không; Trình độ học vấn: 12/12; Tiền án, tiền sự: Không;

Con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm: 1964; con bà: Nguyễn Thị B, sinh năm: 1962. Hiện đều trú tại: Huyện C, tỉnh Đắk Lắk;

Bị cáo có chồng là Nguyễn Thái B, sinh năm 1990 (không đăng ký kết hôn); bị cáo có 02 con lớn sinh năm 2014 và con nhỏ sinh năm 2019.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 19/02/2019 đến nay. Có mặt .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị H là người sử dụng trái phép chất ma túy Methamphetamine hay còn gọi là ma túy đá. Do không có việc làm ổn định nên H đã mua ma túy đá của một người nam giới có tên thường gọi là Ch (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để bán lại cho người khác kiếm lời. Vào ngày 07/01/2019, H điện thoại cho Ch hỏi mua một “hộp năm” ma túy đá thì Ch hẹn gặp H trên đường M, thành phố B, bán cho H 01 gói nylon chứa ma túy đá với số tiền 3.300.000 đồng. H mang số ma túy trên về căn phòng số 09, nhà nghỉ K tại địa chỉ: 23/1 đường G, phường T phân chia ra thành nhiều gói nhỏ bán với giá từ 200.000 đồng, 300.000 đồng và 500.000 đồng/1 gói. Vào khoảng 02giờ, ngày 11/01/2019, H nhận được 01 cuộc gọi điện thoại của 01 người nam giới không rõ lai lịch đặt mua 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) ma túy đá, H hẹn người này đến đầu hẻm 23 đường G, phường T, thành phố B. Sau đó, H chia ma túy vào trong một gói nylon tương đương với số tiền 800.000 đồng và cho vào nắp hộp nhựa màu trắng mang ra đầu đường để bán. Khi H đang đứng đợi thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang, thu giữ gói ma túy nói trên và tiến hành kiểm tra căn phòng số 09, nhà nghỉ K tại địa chỉ: 23/1 đường G, phường T, H đã tự nguyện lấy 01 gói nylon chứa ma túy đá để ở trong thùng giấy cạnh giường ngủ và 03 gói nylon chứa ma túy đá được gói trong giấy vệ sinh để ở phía sau chiếc gương trong nhà tắm giao nộp, Cơ quan điều tra tiến hành niêm phong theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số: 43/GĐMT-PC09 ngày 17/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

- Phong bì M1: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng 0,4129 gam.

- Phong bì M2: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 04 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 2,3433 gam.

Tại bản cáo trạng số: 136/CT-VKS ngày 02/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột,âẫ bị truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa , đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo, vân giữ nguyên quyét định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử:

-Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị H mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, kèm 02 sim và 01 cân tiểu ly điện tử màu trắng - đen, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo H có liên quan đến hành vi phạm tội

- Tịch thu tiêu hủy 2,6215gam Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 43/GĐMT-PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến đối đáp tranh luận gì, mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để kết luận:

Do ý thức coi thường pháp luật và tư lợi bất chính nên vào khoảng 02h30’ ngày 11/01/2019, tại khu vực đầu hẻm 23/1 đường G, phường T, thành phố B, Nguyễn Thị H có hành vi tàng trữ 0,4129gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích bán lại cho người khác thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang. Khám xét phòng trọ của H, số 9 nhà nghỉ K hẻm 23/1 đường G, phường T thu giữ 2,3433gam ma túy Methamphetamine.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét tính chất vụ án, xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm sự thống nhất quản lý ma túy của Nhà nước; Bị cáo nhận thức được Methamphetamine là chất ma túy gây nghiện làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, tội phạm về hình sự như cướp giật, trộm cắp… song do ý thức coi thường pháp luật bị cáo đã cố ý mua bán trái phép chất ma túy loại: Methamphetamine, có tổng khối lượng 2.7562gam.

Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra và cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo thành công dân tốt và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[2]. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3].Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 2,6215gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định thu giữ của bị cáo H là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, kèm 02 sim và 01 cân tiểu ly điện tử màu trắng - đen, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo H có liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung công quỹ nhà nước là phù hợp.

[4] Đối với nguồn ma tuý tạm giữ trong vụ án, bị cáo khai nhận mua của 01 đối tượng tên “Ch” (không rõ nhân thân lại lịch), nhưng đến nay vẫn chưa xác minh được về nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột tách hành vi của đối tượng “Ch” ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[5] Xét quá trình điều tra, truy tố. Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, cũng như lấy lời khai của bị cáo và những người khác liên quan trong vụ án là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự ; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị H (T) phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị H (T): 03 ( Ba) năm 06 ( Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 2,6215gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong gói niêm phong số: 43/GĐMT-PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, kèm 02 sim và 01 cân tiểu ly điện tử màu trắng - đen

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/5/2019 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố B)

Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Thị H (T) phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2019/HS-ST ngày 07/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:144/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về