Bản án 144/2019/HS-PT ngày 12/09/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BN ÁN 144/2019/HS-PT NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2019/TLPT-HS ngày 23 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Thanh P do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh P đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 41/2019/HS-ST ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyn Thanh P (Đen), sinh năm 1989 tại quận CR, thành phố Cần Thơ; Nơi cư trú: Số 17, tổ 57, khu vực 11, phường HP, quận CR, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1960; anh chị em có 04 người, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1989; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Vào 27/9/2012 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xử phạt 07 năm tù, về tội “Cố ý gây thương tích”, tại bản án hình sự Phúc thẩm số: 119/2012/HSPT ngày 27/9/2012, chấp hành xong ngày 31/8/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2018, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 18 tháng 12 năm 2018 Phong nhận được cuộc gọi của người đàn ông giới thiệu tên là V nhà ở quận Ô Môn (không xác định nhân thân lai lịch) người này thuê P vận chuyển quần áo từ thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang về thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang thì P đồng ý, hai bên khi thỏa thuận thống nhất vận chuyển thuê 01 chuyến hàng với giá là 2.800.000 đồng. Đến khoảng 09 giờ, ngày 19 tháng 12 năm 2018 V kêu P chạy xe đến khu vực Mũi ông Cọp thuộc địa bàn xã TY, thành phố Hà Tiên. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày P điều khiển xe ôtô 07 chỗ ngồi hiệu Toyota, loại Fortuner màu xám bạc, mang bảng kiểm soát 66A-03675 (xe này do Phong thuê của cơ sở dịch vụ du lịch Trường Hưng) đến gặp Vũ tại Mũi ông Cọp. Tại đây, V kêu P chạy xe theo V đến khu vực Hòn Heo, Hà Tiên để nhận hàng. Khi đến nơi V kêu P mở cốp xe sau ra để V đưa hàng lên xe. P hỏi V là chở hàng gì thì V nói là thuốc lá điếu nhập lậu. Lúc này Phong nhìn các bao hàng và thấy bên trong có chứa thuốc lá nhãn hiệu HERO, JET và SCOTT. Sau đó P cùng V đưa số thuốc lá trên lên xe. Khi đưa thuốc lá lên xe xong P điều khiển xe chạy thẳng về hướng Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, P điều khiển xe đến đoạn đường trên Quốc lộ 61 thuộc ấp Hòa Thạnh, xã Minh Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang thì bị lực lượng Công an tỉnh Kiên Giang kiểm tra phát hiện trên xe có chở thuốc lá điếu nhập lậu nên tiến hành lập biên bản bắt quả tang đối với Nguyễn Thanh P về hành vi vận chuyển hàng cấm. Tang vật tạm giữ gồm: có 4.440 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, 2.960 bao thuốc lá nhãn hiệu JET và 1.480 bao thuốc lá nhãn hiệu SCOTT.

Vt chứng trong vụ án gồm có:

- 01 chiếc xe ôtô 07 chỗ ngồi hiệu Toyota, loại Fortuner màu xám bạc, BKS 66A-03675, số máy 2KDU892423, số khung 69G3G4028346 (đã qua sử dụng), quá trình điều tra đã chứng minh đây là tài sản của bà Võ Thị Thanh T, hiện đã trả lại cho chủ sở hữu;

- 8.880 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại (trong đó có 4.440 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, 2.960 bao thuốc lá nhãn hiệu JET và 1.480 bao thuốc lá nhãn hiệu SCOTT).

Tại Bản án sơ thẩm số: 41/2019/HSST ngày 20/6/2019 Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang:

Áp dụng: Điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh Phong phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P 05 (năm) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 19/12/2018.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/6/2019, bị cáo Nguyễn Thanh P có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: Mức án quá cao so với hành vi phạm tội của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về hành vi phạm tội của bị cáo bị cấp sơ thẩm xét xử về tội “Vận chuyển hàng cấm“ theo điểm b khoản 3 Điều 191 BLHS là có cơ sở, đúng pháp luật. Về mức hình phạt, cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đúng quy định. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có cung cấp tình tiết mới là nộp lại số tiền thu lợi bất chính 2.800.000 đồng. Do nhận thấy hành vi của mình vi phạm pháp luật, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên bị cáo tự nguyện nộp lại số tiền trên. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 BLHS giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo còn 04 năm tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyết định của bản án sơ thẩm:

Vào ngày 18/12/2018 thì có một người khách tên V kêu bị cáo Nguyễn Thanh P vận chuyển quần áo từ thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang về thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang với giá 2.800.000 đồng, bị cáo đồng ý. Vào khoảng 15 giờ ngày 19/12/2018 V kêu bị cáo chạy xe theo V để nhận hàng. Khi đến nơi bị cáo hỏi V và biết được hàng thuê vận chuyển là thuốc lá. Trên đường đi đến đoạn Quốc lộ 61 thuộc ấp HT, xã MH, huyện CT, tỉnh Kiên Giang thì bị lực lượng Công an tỉnh Kiên Giang kiểm tra phát hiện trên xe có chở thuốc lá điếu nhập lậu nên tiến hành lập biên bản bắt quả tang đối với Nguyễn Thanh P về hành vi vận chuyển hàng cấm. Tang vật tạm giữ gồm: có 4.440 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, 2.960 bao thuốc lá nhãn hiệu JET và 1.480 bao thuốc lá nhãn hiệu SCOTT. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã xử bị cáo Nguyễn TP về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Thanh P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu tình hình kiểm soát buôn bán hàng hóa tại các khu vực biên giới. Sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo mức án 05 năm tù là phù hợp. Tuy nhiên sau khi xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo và có thể hiện được thái độ ăn năn hối cải bằng việc nộp lại số tiền thu lợi bất chính 2.800.000 đồng. Đây là tình tiết mới có thể xem xét việc thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải của bị cáo là 02 tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 51 BLHS từ đó áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng là phù hợp.

[4] Về quan điểm của Viện kiểm sát: Về mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo là phù hợp, HĐXX chấp nhận.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Do yêu cầu kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh P; sửa bản án sơ thẩm.

2. Áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P 03 (ba) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 19/12/2018.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thanh P không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 41/2019/HSST ngày 20/6/2019 Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2019/HS-PT ngày 12/09/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:144/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về