Bản án 144/2019/HSPT ngày 08/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH H2TĨNH

BẢN ÁN 144/2019/HSPT NGÀY 08/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H2Tĩnh xét xử Pthẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 126/2019/TLPT-HS ngày 22 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo Phan Khắc Qvà Nguyễn Thị Thanh Huyền, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2019/HSST ngày 16-9-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh H2Tĩnh;

- Bị cáo kháng cáo:

1. Phan Khắc Q; sinh ngày 13/7/1990 tại xã Phú Phong, huyện H, tỉnh H2Tĩnh; Nơi cư trú: tổ dân phố 9, thị trấn Hương Khê, huyện H, tỉnh H2Tĩnh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn C và con bà Nguyễn Thị A; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 22/12/2018, tạm giam từ ngày 26/12/2018 đến ngày 25/01/2018; hiện được tại ngoại ở địa phương; có mặt.

2. Nguyễn Thị Thanh H; sinh ngày 15/7/1987 tại thị trấn Hương Khê, huyện H, tỉnh H2Tĩnh; Nơi cư trú: tổ dân phố 01, thị trấn Hương Khê, huyện H, tỉnh H2Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc B và con bà Nguyễn Thị H; có chồng là Nguyễn Văn D (đã ly hôn) và 03 đứa con, lớn nhất 10 tuổi, nhỏ nhất 05 tuổi; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 22/12/2018 đến ngày 26/12/2018; hiện được tại ngoại ở địa phương; có mặt.

Ngoài ra còn có bị cáo Biện Thị L không kháng cáo, không bị kháng nghị.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo: Chị Trần Thị T, địa chỉ: Tổ dâ n phố 11, thị trấn Hyện H, tỉnh H2Tĩnh (cấp Pthẩm không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 30 phút, ngày 21/12/2018 trong khi Biện Thị Lý, Phan Khắc Q, Trần Thị Thúy H1, Nguyễn Thị Thu H, Dương Quốc C, Lê Vinh P, Phạm Thanh B, Đinh Thị H2N, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị N và một số người đang dự tiệc sinh nhật của Nguyễn Thị Bích H tại quán ăn của anh Nguyễn Thế Anh ở tổ dân phố 6, thị trấn Hương Khê, huyện H. Quá trình ăn uống tại quán thì có người trong số những người tham dự nói “Sinh nhật Huế có bay, lắc gì không”? Cùng thời điểm này Nguyễn Thị Thu H2nhắn tin cho Nguyễn Thị Thanh H đang ở thành phố H2Tĩnh qua tin nhắn Messenger của Facebook và rủ H lên thị trấn Hương Khê chơi, khi nhận được tin nhắn Hnhắn lại hỏi H2“có đồ chưa” (H2hiểu ý của Hlà có ma túy để sử dụng chưa). H2tiếp tục nhắn tin cho Trần Thị Thúy H1với nội dung mọi người đã thống nhất chơi ma túy và hỏi H1có ma túy không. Sau khi nhận được tin nhắn của Hà, H1sử dụng sim rác gọi vào số máy của một người đàn ông tên là Cường ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hỏi mua 15 viên ma túy (thuốc lắc) và 03 gói Ketamine với tổng số tiền là 10.150.000đ và nói người đó thuê xe taxi đưa lên thị trấn Hương Khê cho H1(Trong đó số tiền mua ma túy là 8.850.000đ và tiền thuê taxi đưa ma túy lên Hương Khê là 1.300.000đ). Sau khi tiệc sinh nhật tại quán anh Anh xong các đối tượng đưa nhau đến hát Karaoke và uống bia tại phòng VIP 8 quán karaoke Du Bai của chị Biện Thị H ở tổ dân phố 1, thị trấn Hương Khê, huyện HK. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì H1nhận được điện thoại của Cường bảo ra ngã 5 đường Hồ Chí Minh ở thị trấn Hương Khê để lấy ma túy, H1đi bộ đến điểm hẹn gặp một người đàn ông lái xe taxi nhận ma túy rồi đưa cho người đó 3.000.000đ, còn 7.150.000đ H1nói đã thống nhất với Cường trả sau. Sau khi lấy được ma túy H1quay lại quán Karaoke Du Bai đưa 10 viên ma túy và 03 gói ketamine cho Hà, còn 05 viên ma túy H1đưa về cất dấu ở quán của bạn là Đinh Thị H2Ngân, sinh năm 1980 ở tổ dân phố 8, thị trấn Hương Khê (việc này Ngân không biết) rồi tiếp tục quay lại quán Karaoke Du Bai, lúc này tại phòng VIP 8 có thêm Phạm Đức Cường, Lê Thanh Hải, sinh năm 1977 trú tại thị trấn Hương Khê và Nguyễn Thị Thanh Huyền. Sau khi nhận ma túy từ Hằng, H2đưa 10 viên ma túy và 03 gói Ketamine cho Dương Quốc Cường, Cường đưa cho Hà, Phúc, Quỳnh, Ngân, Huế mỗi người 01 viên, Cường dùng 01 viên, còn lại 04 viên và 03 gói ketamine Cường đưa cho Lý, Lý đưa cho Huế 01 viên để đưa cho Bình và đưa cho H01 viên, 02 viên còn lại Lý đưa cho Cường để Cường đưa cho Lê Thanh Hải 01 viên, Phạm Đức Cường 01 viên để sử dụng, còn 03 gói Ketamin Lý đưa cho Bình để Bình “xào” cho các đối tượng sử dụng. Do một số người chưa có ma túy nên H1quay về quán của Ngân lấy 05 viên ma túy mà H1cất dấu lúc nãy cho vào trong túi đựng quần áo rồi thuê một người đàn ông lái xe taxi ở thị trấn Hương Khê đưa lại quán Karaoke Du Bai, cả bọn tiếp tục sử dụng ma túy và hát, nhảy theo nhạc. Khoảng 19 giờ cùng ngày Lý nhận được điện thoại của Nguyễn Thị Lệ Quyên hỏi còn ma túy không để Quyên cùng Tô Hữu Tài đến sử dụng. Vì số ma túy mà H1đưa đến đã sử dụng hết, nên Lý nói với mọi người là Quyên và Tài đến nhưng đã hết ma túy, Qsử dụng điện thoại di động của mình gọi điện cho một người đàn bà có tên là “Hkẹo lạc” có số điện thoại 0934578899 hỏi “có đồ không” (với ý là có ma túy không) thì người đó trả lời không có. Một lúc sau Qnhận được điện thoại của một người đàn bà có số thuê bao 0916738933, người đó hỏi lấy bao nhiêu ma túy, Qnói là đưa lên cho Q05 viên ma túy và 02 gói Ketamine rồi thỏa thuận với nhau tiền mua ma túy là 5.000.000đ, tiền thuê xe vận chuyển là 1.000.000 đ. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày Qnhận được điện thoại của một người đàn ông có số thuê bao 0918812269 nói xe đến rồi xuống mà lấy ma túy, Qliền đi sang phòng VIP 7 nói với mọi người “xe đã đến” (ý nói là xe đưa ma túy đã đến) thì có người hỏi hết bao nhiêu tiền nên Qtrả lời là 6.000.000 đồng, vì không thấy ai nói gì nên Hnhờ Bình sang phòng VIP 8 lấy túi đưa cho Huyền, Hmở túi lấy 6.000.000 đồng đưa cho Qđể trả tiền ma túy, Qđi xuống trước quán Du Bai gặp một người đàn ông lái xe taxi nhận ma túy rồi đưa cho người đó 6.000.000 đồng. Sau khi lấy được ma túy Qlên phòng đưa cho Lý, Lý phát cho H1/2 viên và đưa 02 gói ketamine cho Bình để “xào” cho các đối tượng tiếp tục sử dụng. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày Tài cùng Quyên đến phòng VIP 8, tại đây Lý đưa cho Tài 01 viên, Quyên 1/2 viên, Dương Quốc Cường 1/2 viên, còn lại Lý cất giữ trên người, cả bọn chơi đến lúc 21 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ và thu giữ 01 gói ni lon kích thước 6cm x 10cm, màu xanh, đen bên ngoài có dòng chữ CLOUD9 Mad hatler, Incense 10g bên trong có chứa thảo mộc khô màu nâu, 01 túi ni lông kích thước 4cm x 6cm, bên trong đựng 02 viên nén hình lục giác, màu xám và 02 mảnh vỡ của viên nén,01 túi ni lông kích thước 3cm x 4cm bên trong đựng các hạt tinh thể màu trắng, 02 túi ni lông kích thước 4cm x 6cm, 01 túi ni lông kích thước 3cm x 6cm, 03 túi ni lông kích thước 3cm x 4cm đều đã bóc dở bên trong không có gì, 01 đĩa màu trắng hình tròn đường kính 20cm trên mặt đĩa có dính chất bột màu trắng và 01 thẻ nhựa màu xanh, vàng hình chữ nhật, kích thước 4cm x 6cm,01 ống hút hình trụ dài 15cm, đường kính 0,8cm được làm từ vỏ đầu lọc thuốc vinataba và 01 tờ tiền polyme mệnh giá 50.000đ.

Theo kết quả giám định số 37/GĐMT – PC09 ngày 24/12/2018 của phòng kỷ thuật hình sự công an tỉnh H2Tĩnh kết luận:

- Thảo mộc khô màu nâu đựng trong 01 gói ni lông, kích thước 6cm x 10cm màu xanh, đen có khối lượng: 3,7463 gam không xác định được chất ma túy.

- 02 (hai) viên nén hình lục giác màu xám và 02 (hai) mảnh vỡ của viên nén đựng trong 01 gói ni lông trong suốt, kích thước 4cm x 6cm có khối lượng: 1,3449 gam MDMA.

- Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi ni lông trong suốt, kích thước 3cm x 4cm có khối lượng: 0,6155gam Ketamine.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2019/HSST ngày 16-9-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh H2Tĩnh đã căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phan Khắc Q; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh Huyền; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Biện Thị Lý; Điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí. Tuyên bố bị cáo Phan Khắc Q, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Biện Thị Lý phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Xử phạt bị cáo Phan Khắc Q24 tháng tù. Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2018 đến ngày 25/01/2019. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh H22 tháng tù. Bị cáo được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/12/2018 đến ngày 26/12/2018. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

+ Xử phạt bị cáo Biện Thị Lý 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngày 17 tháng 9 năm 2019, bị cáo Phan Khắc Q kháng cáo, ngày 25/9/2019 bị cáo Nguyễn Thị Thanh H kháng cáo. Cả hai bị cáo đều xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa Pthẩm các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H2Tĩnh Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H2Tĩnh sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận nội dung kháng cáo của các bị cáo. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2019/HSST ngày 16-9-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh H2Tĩnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Phan Khắc Qvà Nguyễn Thị Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như án sơ thẩm đã tuyên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ. Do đó có căn cứ khẳng định Bản án Hình sự sơ thẩm số 24/2019/HSST ngày 16-9-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh H2Tĩnh đã tuyên đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Hành vi của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách NH2nước về quản lý chất ma túy. Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, nên phải chịu mọi hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Đối với bị cáo Phan Khắc Q: Cấp sơ thẩm đã cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và đã lên mức án 24 tháng tù giam là phù hợp. Tuy nhiên xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có cha mẹ già yếu, là người chịu trách nhiệm chính trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ, bản thân chưa lập gia đình.

Tại phiên tòa Pthẩm, bị cáo xuất trình các tình tiết mới: Là một trong 5 người sáng lập nên Nhóm Thiện Tâm Hương Khê tích cực thực hiện các hoạt động từ thiện, cứu hộ cứu nạn đồng bào bị lũ lụt trên địa bàn huyện H (có xác nhận của chính quyền địa phương) nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[3] Đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh Huyền: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS, có 2 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1, và khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự: “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, có bố là thương binh hạng 4.

Tại phiên tòa Pthẩm, bị cáo xuất trình tài liệu mới: Hoàn cảnh khó khăn là mẹ đơn thân, một mình nuôi 3 con nhỏ, đứa lớn 10 tuổi, đứa nhỏ 5 tuổi (có xác nhận của chính quyền địa phương). HĐXX thấy, bị cáo đã thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, mẹ đơn thân nuôi dưỡng 3 con còn nhỏ nên cũng cần áp dụng chính sách đối ưu tiên đối với phụ nữ, chấp nhận một phần nội dung kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm có cơ hội trở về chăm sóc con cái.

[4] Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí HSPT.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận một phân nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Phan Khắc Q, và Nguyễn Thị Thanh H. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2019/HSST ngày 16-9-2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh H2Tĩnh về phần hình phạt.

2. Tuyên bố: bị cáo Phan Khắc Q, bị cáo Nguyễn Thị Thanh H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Phan Khắc Q 14 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/12/2018 đến ngày 25/01/2019.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt. Nguyễn Thị Thanh H 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày22/12/2018 đến ngày 26/12/2018.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 23/12/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án, các bị cáo Phan Khắc Q, Nguyễn Thị Thanh H không phải chịu án phí hình sự Pthẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án Pthẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
  • Tên bản án:
    Bản án 144/2019/HSPT ngày 08/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    144/2019/HSPT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    08/11/2019
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2019/HSPT ngày 08/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:144/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành:
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về