Bản án 144/2019/HSPT ngày 03/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 144/2019/HSPT NGÀY 03/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 120/2019/HSPT ngày 04/4/2019 đối với bị cáo Lê Anh T về tội “Trộm cắp tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án HSST số 40/2019/HSST ngày 01/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Anh T (tên gọi khác: TN), sinh ngày 12/4/1995, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Thôn 5, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Lê Văn L và bà Hồ Thị Kim C; Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án: 02 tiền án.

Bản án số: 127/2015/HSST ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân thành phốBuôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”;

Bản án số: 273/2016/HSST ngày 27/10/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 18/11/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 09 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản. Đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/8/2018 hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1969; Nơi cư trú: 97/23 đường Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bà Nguyễn Thị Thu D, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Hẻm 151 đường Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

3. Bà Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1968; Nơi cư trú: 53/19 đường N, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

4. Ông Võ Việt V, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Thôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

5. Ông Y Q, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Buôn S, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

6. Bà Đinh Hoàng Tú D, sinh năm 1970; Nơi cư trú: 34 đường T, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

7. Ông Phan Đắc H, sinh năm 1963; Nơi cư trú: 42/01 đường Đ, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

8. Ông Võ Đình Q, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Tổ dân phố 7, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

9. Ông Huỳnh Phú H, sinh năm 1974; Nơi cư trú: Tổ dân phố 8, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Thành T1, sinh năm 1985 và anh Nguyễn Thành T2, sinh năm 1982; cùng cư trú: Thôn 5, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Anh Nguyễn Văn V, Sinh năm 1965; Nơi cư trú: 53/1 đường N, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

3. Chị Hà Hoàng Bảo U, sinh năm 1997; Nơi cư trú: 31 đường T, Phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; do bà Đinh Hoàng Tú D đại diện theo ủy quyền (giấy ủy quyền ngày 06/9/2018).

4. Chị Phan Thị Hồng L, sinh năm 1990; Nơi cư trú: 42/1 đường Đ, Phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

5. Anh Võ Đình P, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Tổ dân phố 7, Phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

6. Anh Lê Hồng V, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

7. Anh Trần Minh T3, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Liên gia 10, tổ dân phố 10, phường X, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Tất cả người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Anh T là đối tượng đã có tiền án, nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên từ tháng 01/2018 đến tháng 8/2018, Lê Anh T đã thực hiện 09 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố B, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 07 giờ ngày 08/01/2018, Nguyễn Thành T1, điều khiển xe mô tô biển số 47H5-9491, chở Lê Anh T ngồi sau đi tìm tài sản của người dân sơ hở để trộm cắp. Khi Tú, T đi đến nhà chị Nguyễn Thị S, trú tại: 97/23 đường Y, phường T, thành phố B, phát hiện cổng nhà chị S không khóa, trong sân nhà có dựng xe mô tô biển số 47B1-505.67, màu đỏ, hiệu Honda Wave, không có người trông coi. T nói T1 dừng xe lại, T1 đứng ngoài cảnh giới còn T đi vào trong sân nhà chị S, dùng tay cạy yên xe mô tô lên, trộm cắp 01 chiếc ví nữ bằng nhựa màu đen, bên trong có: 200.000 đồng, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47B1-505.67, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe, tất cả đều mang tên Nguyễn Thị S. Sau khi trộm cắp tài sản của chị S, T1 chở Tđến khu vực nghĩa trang, đường P, T lấy số tiền 200.000 đồng mua ma túy của một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch), để cùng T1 sử dụng chung. Ngày 14/01/2018 chị S đã làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để giải quyết. Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47B1-505.64 (do Tú giao nộp), để phục vụ công tác điều tra. Tuấn đã vứt bỏ ví nữ bằng nhựa, màu đen và các giấy tờ còn lại nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 38/KLĐG ngày 11/02/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 chiếc ví nữ, bằng nhựa gia công, màu đen có kích thước (25x15)cm, trị giá 5.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47B1-505.67, thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị S. Ngày 27/12/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị S nhận quản lý, sử dụng. Đối với: Số tiền 200.000 đồng, 01 chiếc ví nữ bằng nhựa màu đen và các giấy tờ khác (không thu giữ được). Chị S không yêu cầu Lê Anh T, Nguyễn Thành T1 phải bồi thường nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Vụ thứ hai: Khoảng 6 giờ 30 ngày 13/01/2018, Nguyễn Thành T1 điều khiển xe mô tô biển số 47H5-9491, chở Lê Anh T ngồi sau đi tìm tài sản của người dân sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến dãy phòng trọ, địa chỉ hẻm 151 đường Y, phường T, thành phố B, Tú dừng xe mô tô đứng ngoài cảnh giới, Tuấn đi vào trong thì thấy phòng số 03, của chị Nguyễn Thị Thu D, cửa khép hờ không khóa và không có người nên T vào trộm cắp: 01 ví da nam màu nâu đỏ, bên trong có: 01 tờ tiền Canada mệnh giá 5 CAD, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47H1-359.23, và 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47K8-4090, sau đó T, T1 tẩu thoát đến khu vực chợ T, thành phố B. T đưa cho T1 giữ 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47K8-4090, còn T cất giữ chiếc ví da bên trong có tờ 5 CAD Canada và các giấy tờ trộm cắp. Ngày 14/01/2018 chị Nguyễn Thị Thu D đã làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để giải quyết. Cơ quan điều tra đã thu giữ được toàn bộ các tài sản bị trộm cắp của chị Nguyễn Thị Thu D, để phục vụ công tác điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 38/KLĐG ngày 11/02/2018 và Bản kết luận định giá tài sản số 28/KLĐG ngày 29/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 chiếc ví da nam, màu đỏ, kích thước (15x10)cm; trị giá: 70.000 đồng; 05 CAD Canada quy đổi thành tiền Việt Nam đồng là 89.365 đồng; trị giá tài sản trộm cắp là 159.365 đồng.

Quá trình điều tra xác định: 01 ví da nam màu đỏ, bên trong có: 01 tờ tiền Canada mệnh giá 5CAD, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47H1-359.23 và 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47K8-4090, là tài sản của chị Nguyễn Thị Thu D quản lý. Ngày 27/12/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản trên cho chị D nhận quản lý.

Vụ thứ ba: Khoảng 20 giờ ngày 18/6/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi quanh các tuyến đường của địa bàn thành phố B, tìm xem có người dân nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi T đi đến trước số nhà 58 đường N, phường A, thành phố B, thấy 01 chiếc xe mô tô biển số 47N8-0016 của chị Nguyễn Thị Mỹ L, đang dựng trên vỉa hè. Quan sát không thấy người quản lý, T dùng vam phá khóa bẻ ổ khoá điện của xe mô tô biển số 47N8-0016, rồi nổ máy chạy tẩu thoát. Sau đó T đem chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được bán cho M (không rõ nhân thân lai lịch), được số tiền là 3.000.000 đồng, số tiền này T mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết, Cơ quan điều tra không thu giữ được. Sau khi bị trộm cắp tài sản, chị L đã làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 210/KLĐG ngày 27/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc, biển số 47N8-0016; số máy: 5C63072999; số khung: 5C6308Y072999; trị giá 7.500.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô biển số 47N8-0016, số máy: 5C63072999; số khung: 5C6308Y072999, màu đen bạc, đứng tên chủ xe Nguyễn Văn V (là chồng chị L), ngày 18/6/2018 chị Nguyễn Thị Mỹ L sử dụng để đi công việc thì bị Lê Anh T trộm cắp. Hiện chị L yêu cầu Lê Anh T phải bồi thường số tiền7.500.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng13 giờ 30 phút ngày 01/7/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến trước số nhà 119/20A đường M, phường T, thành phố B, Tuấn thấy chiếc xe mô tô biển số 54T2-4840, của anh Vũ Việt V, đang dựng trên đường. T quan sát không có người trông coi nên T dùng vam phá khóa bẻ ổ khóa điện của xe mô tô biển số 54T2-4840, rồi nổ máy chạy tẩu thoát. Sau đó T đem chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được bán cho T3 (không rõ nhân thân lai lịch), được số tiền là 2.500.000 đồng, số tiền này T mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết, Cơ quan điều tra không thu giữ được. Sau khi bị trộm cắp tài sản, anh V đã làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 05/KLĐG ngày 10/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave RS, màu xanh đen, biển số 54T2-4840, số máy: HC12E1243324, số khung: Y043420; trị giá 4.500.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave RS, màu xanh, biển số 54T2-4840, đứng tên chủ xe là Công ty CP, địa chỉ: 60-60 L L, Q 1, Thành phố H. Anh Vũ Việt V được Công ty giao xe mô tô để đi giao hàng thì bị Lê Anh T trộm cắp. Ngày 10/8/2018 anh V đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho Công ty CP, số tiền 4.000.000 đồng. Hiện anh V yêu cầu Lê Anh T phải bồi thường số tiền 4.500.000 đồng.

Vụ thứ năm: Khoảng 16 giờ ngày 05/7/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi tìm xem có người dân nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi đi đến hẻm 54 đường C, phường Tân L, thành phố B, T thấy chiếc xe mô tô biển số 47B2-292.40, hiệu Yamaha Sirius, màu đen, của anh Y Q, đang dựng trên đường hẻm. Quan sát không thấy người trông coi nên T đã lén lút dùng vam phá khóa bẻ ổ khóa điện của xe mô tô biển số 47B2-292.40, nổ máy rồi chạy tẩu thoát đến một khu vực rẫy cà phê, T tháo biển số xe vứt bỏ, dùng đá và tuốc nơ vít đục mòn số máy của xe mô tô trộm cắp. Sau đó T đem chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được bán cho T3 (không rõ nhân thân lai lịch), được số tiền là 2.500.000 đồng, số tiền này T mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết. Ngày 23/7/2018 Công an phường T, thành phố B, tuần tra phát hiện Phạm Tiến H, sinh năm: 2000, trú tại: 43/4 đường X, phường T, thành phố B, đang điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius trên không gắn biển số nên tiến hành tạm giữ, để làm việc.

Tại Cơ quan Công an, H khai mua lại chiếc xe mô tô trên của Nguyễn Kiều Hải D, sinh năm: 1996, trú tại: 257/9 đường M, phường T và Lê Công A, sinh năm: 1997, trú tại: 37 đường N, phường A, với số tiền 3.900.000 đồng. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, D khai mua lại của Trương Quốc T4, sinh năm: 1990, trú tại: 18/3 đường C, phường T, với số tiền 5.000.000 đồng. Trương Quốc T4 khai chiếc xe mô tô trên là của Bùi Hoàng M, sinh năm: 1991, trú tại: 53/8/8 đường C, nhờ Trương Quốc T4 bán giúp. Hiện M không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa xác minh làm rõ được nhân thân lai lịch của Bùi Hoàng M. Sau khi bị trộm cắp, anh Y Q đã trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để xử lý theo quy định của pháp luật. Cơ quan điều tra đã tạm giữ xe mô tô không gắn biển số, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô (bản phô tô), của anh Y Q để phục vụ công tác điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 218/KLĐG ngày 03/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, không gắn biển số, số máy: E3X9E237027, số khung: 3240HY086771; trị giá 14.700.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen (không gắn biển số), là tài sản của anh Y Q (xe đã bị Lê Anh T đục mòn số máy). Ngày 27/12/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô trên cho anh Y Q, nhận quản lý, sử dụng. Đối với biển số xe mô tô bị Lê Anh T tháo vứt bỏ, anh Y Q không yêu cầu Lê Anh T phải bồi thường chi phí làm lại nên Cơ quan điều tra không đề cập xửlý.

Vụ thứ sáu: Khoảng 16 giờ ngày 10/7/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi quanh các tuyến đường của địa bàn thành phố B, tìm xem có người dân nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi đi đến số nhà 34 đường H, phường T, thành phố B, T thấy cửa cổng mở, trong sân nhà có dựng chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu trắng, biển số 47B1-696.98, của chị Đinh Hoàng Tú D, trên xe mô tô có cắm sẵn chìa khóa. Quan sát không thấy người quản lý, T lén lút đi vào trong sân dắt chiếc xe mô tô ra ngoài nổ máy rồi tẩu thoát. Khi đi đến đoạn đường vắng người, T dừng lại tháo biển số xe vứt bỏ (không nhớ địa điểm), Cơ quan điều tra không thu giữ được. Sau đó T dùng điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng gọi cho Lê Hồng V, sinh năm: 1989, trú tại: Thôn T, xã H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, nhờ V cầm cố xe giúp thì V nói mang xe đến. T điều khiển xe mô tô đến gặp V nhưng vì xe không có giấy tờ nên V không đồng ý. T nói cho gửi xe mô tô lại và mượn V số tiền 300.000 đồng thì V đồng ý. Sau đó V dắt chiếc xe mô tô sang nhà anh Trần Minh T5, gửi lại và nói sáng mai đến lấy thì anh T5 đồng ý. Sau khi bị trộm cắp tài sản chị D đã làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để giải quyết. Ngày 12/7/2018 anh T5 đã giao nộp chiếc xe mô tô (không gắn biển số), hiệu Honda Vision màu trắng, cho Cơ quan điều tra để phục vụ công tác điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 181/KLĐG ngày 29/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu trắng, không gắn biển số, số máy: JF33E0546639, số khung: RLHJF3316DY466516; trị giá 13.700.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng (không gắn biển số), số máy: JF33E0546639, số khung: RLHJF3316DY466516, đứng tên chủ sở hữu là chị Hà Hoàng Bảo U (là con gái chị Đinh Hoàng Tú D), chị U để lại cho chị D chiếc xe mô tô làm phương tiện đi lại. Ngày 6/9/2018 chị U đã làm giấy ủy quyền cho chị D nhận lại chiếc xe mô tô. Ngày 27/12/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô (không gắn biển số) cho chị D nhận quản lý, sử dụng. Đối với biển số xe mô tô không thu giữ được, chị D không yêu cầu phải bồi thường chi phí làm lại biển số nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Vụ thứ bảy: Khoảng 09 giờ ngày 18/7/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi quanh các tuyến đường của địa bàn thành phố B, tìm xem có người dân nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi đi đến số nhà 42/01 đường Đ, phường L, thành phố B, Tuấn thấy chiếc xe mô tô biển số 47N9-7563, hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc của anh Phan Đắc H, đang dựng trước nhà. Quan sát xung quanh không có người trông coi, T lén lút đi lại gần xe mô tô dùng vam phá ổ khóa điện của xe mô tô, nổ máy tẩu thoát. Sau đó T đem chiếc xe mô tô biển số 47N9-7563, bán cho người thanh niên tên K (chưa rõ nhân thân lai lịch), được số tiền 2.500.000 đồng. Số tiền này T mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết, Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 210/KLĐG ngày 27/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc, biển số 47N9-7563, số máy: 5C63152910, số khung: C6308Y152910; trị giá 7.500.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc, biển số 47N9-7563, số máy: 5C63152910, số khung: C6308Y152910, đứng tên chủ sở hữu là chị Phan Thị Hồng L, sinh năm:1990 (con của anh Phan Đắc H), chị Lê cho anh H chiếc xe mô tô biển số 47N9-7563, làm phương tiện đi lại. Hiện anh H yêu cầu Lê Anh T phải bồi thường số tiền 7.500.000 đồng.

Vụ thứ tám: Khoảng 20 giờ ngày 29/7/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi tìm xem có người dân nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi đi đến quán cà phê J7, địa chỉ: 86 đường D, phường N, thành phố B, T thấy trên vỉa hè trước quán cà phê có dựng chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc, biển số 47B2-396.42, của anh Võ Đình Q. Quan sát xung quanh thấy không có người, T lén lút đi lại gần chiếc xe mô tô dùng vam phá ổ khóa điện của xe mô tô, nổ máy rồi tẩu thoát. Sau đó Tuấn đem chiếc xe mô tô vừa trộm cắp bán cho người thanh niên tên H (chưa rõ nhân thân lai lịch) được số tiền 4.000.000 đồng. Số tiền này T mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết, Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 210/KLĐG ngày 27/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc, biển số 47B2-396.42, số máy: E3X9E412862, số khung: 3210JY178309; trị giá 17.200.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc, biển số 47B2-396.42, số máy: E3X9E412862, số khung: 3210JY178309, đứng tên chủ sở hữu là anh Võ Đình P (là anh trai anh Võ Đình Q). Thời điểm mua chiếc xe mô tô biển số 47B2-396.42, anh Q chưa có giấy phép lái xe nên nhờ anh P đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Hiện anh Q yêu cầu Lê Anh T phải bồi thường số tiền 17.200.000 đồng.

Vụ thứ chín: Khoảng 18 giờ ngày 28/8/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi tìm xem có người dân nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi đi đến nghĩa trang giáo xứ M, địa chỉ: Tổ dân phố 6, phường E, thành phố B, Tuấn thấy trong nghĩa trang có để chiếc xe mô tô hiệu Honda Dream, màu nâu, biển số 47F3-2982, của anh Huỳnh Phú H, trên xe cắm sẳn chìa khóa. T quan sát xung quanh không có người trông coi nên lén lút đi lại gần xe mô tô, dắt ra ngoài nổ máy rồi tẩu thoát. Trên đường đi T mở cốp xe ra kiểm tra thì thấy có các giấy tờ: 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy phép lái xe và 01 chứng minh nhân dân, đều mang tên Huỳnh Phú H. T giữ lại 01 giấy đăng ký xe mô tô và 01 chứng minh nhân dân còn 01 giấy phép lái xe T đã vứt bỏ (không nhớ đia điểm). Sau đó T đem xe mô tô biển số 47F3-2982, đến gặp người thanh niên tên M (chưa rõ nhân thân lai lịch) nói là xe của T đang cần tiền nên đưa xe mô tô và giấy tờ cho M nhờ bán giúp, thì M đồng ý.

Một lúc sau, M quay lại đưa cho T số tiền 4.000.000 đồng. Số tiền này T dùng mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 10/9/2018 tại Cơ quan điều tra, anh Cao Tiến C, sinh năm: 1985, trú tại: Buôn P, phường L, thành phố B, khai nhận:

Vào khoảng 21 giờ ngày 22/8/2018 anh Công đang làm việc tại tiệm sửa chữa xe mô tô, địa chỉ: 253 đường L, phường T, thành phố B, thì có người tên N (quen biết ngoài xã hội, không rõ nhân thân lai lịch) gọi điện thoại nhờ anh C cầm giúp cho một người bạn của N chiếc xe mô tô thì anh C đồng ý. Một lúc sau, N cùng với T (là bạn của N, không rõ nhân thân lai lịch) điều khiển xe mô tô biển số 47F3-2982, đến gặp anh C. Sau khi anh C xem giấy tờ xe mô tô biển số 47F3-2982 thì đồng ý cầm với số tiền 7.000.000 đồng. Sau khi biết đây là tài sản phạm pháp, anh C đã tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô biển số 47F3- 2982, cùng 01 giấy đăng ký xe mô tô và 01 chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Phú H, cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để phục vụ công tác điều tra. Ngày 29/8/2018 Cơ quan điều tra đã tạm giữ của Lê Anh T: 01 thanh kim Loại hình chữ L, màu đen, chiều dài khoảng 10cm và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 2322 màu tím đen (không dùng vào việc phạm tội), số imei351952032935659, để xử lý theo quy định của pháp luật; Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu trắng đen, Lê Anh T dùng để liên hệ bán xe mô tô trộm cắp, T đã làm mất (không nhớ địa điểm) nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 218/KLĐG ngày 03/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, biển số 47F3-2982, số máy: 0469850, số khung: 0469850; trị giá 8.500.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô hiệu Honda Dream, màu nâu, biển số 47F3-2982, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy đăng ký xe mô tô, là tài sản của anh Huỳnh Phú H. Ngày 27/12/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại xe mô tô và giấy tờ cho anh Huỳnh Phú H nhận quản lý, sử dụng. Đối với 01 bằng lái xe bị Lê Anh T vứt bỏ, anh H không yêu cầu T phải bồi thường chi phí làm lại nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Ngoài ra tại Cơ quan điều tra Lê Anh T khai nhận thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn thành phố B, như sau:

Vụ thứ nhất: Vào tháng 6/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi quanh các tuyến đường của địa bàn thành phố B, tìm xem có người dân nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi đi trên đường Quốc lộ 27, gần khu vực chợ H, thành phố B, Tuấn thấy 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sitius, màu đỏ (không nhớ biển số) đang dựng trên vỉa hè trước nhà dân (không rõ địa chỉ), không có người trông coi. T lén lút dùng vam phá ổ khóa điện của xe mô tô, nổ máy rồi tẩu thoát. Sau đó Tuấn đem xe mô tô đến bán cho người tên H (không rõ nhân thân lai lịch) được số tiền 3.000.000 đồng, số tiền này T đã mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Vào tháng 8/2018 Lê Anh T mang theo 01 vam phá khóa, đi quanh các tuyến đường của địa bàn thành phố B, tìm xem có người dân nào sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi đi đến đoạn đường Y nối dài, phường T, thành phố B, Tuấn thấy trước công trình đang xây dựng (không nhớ địa điểm) có dựng 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave, màu xanh (không nhớ biển số), đang dựng trên vỉa hè đất, không có người trông coi. T lén lút dùng vam phá ổ khóa điện của xe mô tô, nổ máy rồi tẩu thoát. Sau đó T đem xe mô tô đến bán cho người tên C (không rõ nhân thân lai lịch) được số tiền 1.000.000 đồng, số tiền này T đã mua ma túy và tiêu xài cá nhân hết.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tôi của mình như bản cáo trạng nêu và đồng ý bồi thường cho những người bị hại theo như yêu cầu của họ, bị cáo cũng xác định trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã tự nguyện khai báo, nhưng lời khai đó là đúng sự thật, bị cáo không bị ép cung, nhục hình gì.

Quá trình điều tra bị hại Nguyễn Thị S khai: Vào sáng ngày 08/01/2018 tại nhà bà S bị mất 01 chiếc ví nữ bên trong gồm có: Số tiền 200.000 đồng, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47B1-505.67, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe, sau đó bà trình báo Công an thành phố Buôn Ma Thuột, quá trình điều tra xác định bị cáo T và đối tượng T1 là người lấy trộm. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả cho bà 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47B1-505.67. Đối với số tiền 200.000 đồng, 01 chiếc ví nữ bằng nhựa màu đen và các giấy tờ khác (Cơ quan điều tra không thu giữ được). Bà S không yêu cầu bị cáo và Nguyễn Thành T1 phải bồi thường.

Quá trình điều tra bị hại Nguyễn Thị Thu D khai: Vào sáng ngày 13/01/2018 bà bị mất 01 ví da nam màu nâu đỏ, bên trong có: 01 tờ tiền Canada mệnh giá 5CAD, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47H1- 359.23, và 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47K8-4090. Ngày 14/01/2018 bà đã trình báo Công an thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết, quá trình điều tra xác định bị cáo T và đối tượng T1 là người lấy trộm. Hiện Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà toàn bộ các tài sản bị mất cắp, nên nay bà không yêu cầu bị cáo và Nguyễn Thành T1 phải bồi thường gì thêm.

Quá trình điều tra bị hại Nguyễn Thị Mỹ L khai: Vào tối ngày 18/6/2018 bà L bị mất trộm thấy 01 chiếc xe mô tô biển số 47N8-0016, quá trình điều tra Cơ quan cảnh Sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, xác định bị cáo T là người trộm cắp và không thu hồi được tài sản. Nay bà L yêu cầu bị cáo T phải bồi thường số tiền 7.500.000 đồng là trị giá chiếc xe mô tô bị trộm cắp, ngoài ra bà không có yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra bị hại Võ Việt V khai: Vào chiều ngày 01/7/2018 ông bị trộm cắp 01 xe mô tô hiệu Honda Wave RS, màu xanh, biển số 54T2-4840, số máy: HC12E1243324, số khung:Y043420 khi anh đang đi giao hàng, chiếu xe trên là do Công ty CP giao cho anh quản lý, sử dụng, sau khi bị mất xe giữa ông và Công ty CP đã thỏa thuận bồi thường, trên cơ sở đó ông đã bồi thường xong cho Công ty số tiền xe là 4.000.000 đồng, nay ông yêu cầu bị cáo T bồi thường giá trị xe bị mất là 4.500.000 đồng, ngoài ra ông không yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra bị hại Y Q trình bày: Vào chiều ngày 05/7/2018 ông bị mất xe mô tô biển số 47B2-292.40, sau đó ông đã trình báo lên Cơ quan cảnh Sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh Sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã thu giữ và trả lại cho ông Y Q Ban xe mô tô trên. Đối với biển số xe mô tô bị cáo Tuấn tháo vứt bỏ, ông Y Q không yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí làm lại.

Quá trình điều tra bị hại Đinh Hoàng Tú D trình bày: Vào chiều ngày10/7/2018 tại nhà, bà bị mất 01 xe mô tô hiệu Honda Vision, màu trắng, biển số47B1-696.98, sau đó bà đã báo Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã thu giữ và trả lại cho bà xe mô tô trên. Đối với biển số xe mô tô bị cáo T vứt bỏ, bà D không yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí làm lại.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại ông Phan Đắc H khai: Vào sáng ngày 18/7/2018 ông bị mất 01 xe mô tô biển số 47N9-7563, hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc đang dựng trước nhà. Quá trình điều tra xác định bị cáo T là người trộm cắp, hiện tài sản không thu hồi được, do đó ông yêu cầu bị cáo T phải bồi thường cho ông số tiền 7.500.000 đồng là trị giá chiếc xe, ngoài ra ông không có yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại Võ Đình P khai: Vào tối ngày 29/7/2018 tại quán cà phê J7, địa chỉ: 86 đường Đ, phường N, thành phố B, ông bị mất 01 mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen bạc, biển số 47B2-396.42. Quá trình điều tra xác định bị cáo T là người trộm cắp, hiện tài sản không thu hồi được, do đó ông yêu cầu bị cáo T phải bồi thường cho ông số tiền 17.200.000 đồng là trị giá chiếc xe, ngoài ra ông không có yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra bị hại Huỳnh Phú H trình bày: Vào tối ngày 28/8/2018 tại Nghĩa Trang giáo xứ K, thành phố B, ông H bị mất 01 xe mô tô hiệu Honda Dream, màu nâu, biển số 47F3-2982, trong cốp xe có 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy phép lái xe và 01 chứng minh nhân dân. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh Sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã thu giữ và trả lại cho ông xe mô tô trên, 01giấy đăng ký xe mô tô, 01 chứng minh nhân dân, đối với 01 giấy phép lái xe bị cáo vứt bỏ, ông H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí làm lại.

Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thành T1 khai nhận: Nguyên Thanh T1 và bị cáo Tuấn là chỗ bạn bè và cùng nghiện ma túy, vào tháng 01 năm 2018 Tú và bị cáo T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 07 giờ ngày 08/01/2018, T1 điều khiển xe mô tô biển số 47H5-9491, chở bị cáo T đi tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến số nhà 97/23 đường M, phường L, thành phố B, phát hiện cổng nhà không khóa, trong sân nhà có dựng xe mô tô biển số 47B1-505.67, màu đỏ, hiệu Honda Wave. Bị cáo T nói T1 dừng xe lại, T1 đứng ngoài cảnh giới còn bị cáo T đi vào trong dùng tay cậy yên xe mô tô lên, trộm cắp 01 chiếc ví nữ bằng nhựa màu đen, bên trong gồm có: Số tiền 200.000 đồng, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47B1-505.67, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe. Sau khi trộm cắp tài sản bị cáo T lấy số tiền 200.000 đồng mua ma túy, để cùng T1 sử dụng chung.

Vụ thứ hai: Khoảng 6 giờ 30 ngày 13/01/2018 T1 điều khiển xe mô tô biển số 47H5-9491, hiệu Warm, chở bị cáo T ngồi sau đi tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến dãy phòng trọ, địa chỉ hẻm 151 đường M, phường L, thành phố B, T1 đứng ngoài cảnh giới, bị cáo T đi vào trộm cắp được 01 ví da nam, bên trong có: 01 tờ tiền Canada mệnh giá 5 CAD, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47H1-359.23, và 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47K8-4090, sau đó bị cáo T, T1 tẩu thoát đến khu vực chợ A, thành phố B. Bị cáo T đưa cho T1 giữ 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 47K8-4090, còn bị cáo cất giữ chiếc ví da bên trong có tờ 5 CAD Canada và các giấy tờ trộm cắp.

Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thành T khai nhận: Anh T là anh ruột của Nguyễn Thành T1, chiếc xe mô tô biển số 47H5-9491 là xe anh T mua, vào khoảng tháng 01/2018 T1 có mượn xe trên một vài lần đi công việc, còn việc T1 sử dụng xe mô tô biển số 47H5-9491 đi trộm cắp tài sản thì anh T hoàn toàn không biết gì.

Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn V khai nhận: Anh V là chồng chị Nguyễn Thị Mỹ L chiếc xê mô tô biển số 47N8- 0016 là xe của vợ chồng anh, anh V đứng tên sở hữu, nay đề nghị bị cáo có trách nhiệm bồi thường giá trị xe mô tô bị mất.

Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phan Thị Hồng L khai nhận: Chị L là con ruột ông Phan Đắc H, xe mô tô biển số 47N9-7563 do chị L đứng tên đăng ký, chị L cho ông H xe mô tô trên làm phương tiện đi lại, nay bị cáo trộm cắp xe trên, đề nghị bị cáo bồi thường giá trị xe mô tô cho ông H theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Võ Đình P khai nhận: Anh P là anh trai của Võ Đình Q chiếc xe mô tô biển số 47B2-396.42 là xe của anh Q nhờ anh đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, người sử dụng xe là Q, nay đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo pháp luật.

Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Hồng V khai nhận: Vào khoảng 21 giờ ngày 10/7/2018, bị cáo T có nhờ anh V cầm cố 01 xe Honda Vision màu trắng nhưng vì xe không có giấy tờ nên anh V không cầm và có cho bị cáo T gửi lại xe, đồng thời có cho bị cáo T mượn 300.000 đồng, nay anh V không yêu cầu bị cáo T phải trả số tiền 300.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Minh T khai: Vào tối ngày 10/7/2018, anh có cho Lê Hồng V gửi 01 xe mô tô Honda Vision, màu trắng tại nhà, sau đó đến sáng ngày 12/7/2018 thì anh giao nộp xe trên cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, về nguồn gốc chiếc xe trên thì anh không biết gì.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HSST ngày 01/3/2019 của Tòa ánnhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Anh T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm b, c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Anh T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 30/8/2018.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, ánphí và quyền kháng cáo cho bị cáo và các đương sự theo quy định.

Ngày 04/3/2019, bị cáo Lê Anh T có đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HSST ngày 01/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nộidung bản án sơ thẩm đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tài liệu chứng cứ xin giảm nhẹ hình phạt nào mới. Vì vậy, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh của xã hội tại địa phương; Bị cáo nhận thức được rằng trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và bị pháp luật nghiêm trị. Song do ý thức coi thường pháp luật vì mục đích tư lợi cá nhân mà từ tháng 01/2018 đến tháng 8/2018, bị cáo đã thực hiện 9 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tổng giá trị mà bị cáo chiếm đoạt là 73.964.365 đồng. Bị cáo phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tái phạm nguy hiểm, bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt về tội trộm cắp tài sản mà bị cáo không chịu lao động chân chính, không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo 06 năm tù là thỏa đáng, tương xứng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời xem xét đầy đủ các tỉnh tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng .Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, mà cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột về phần hình phạt.

 [3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

 [4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Anh T - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HS-ST ngày 01/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.

 [2] Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm b, c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Anh T 06 (sáu) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 30/8/2018.

 [3] Về án phí HSPT: Bị cáo Lê Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

 [4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2019/HSPT ngày 03/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:144/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về