Bản án 144/2019/HN-ST ngày 17/12/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 144/2019/HN-ST NGÀY 17/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 470/2019/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 7 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định Hoãn phiên tòa số: 253/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 22 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Thái Thị M, sinh năm 1976. Có mặt. Địa chỉ: Ấp M, xã M, thành phố L, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1973. Vắng mặt. Địa chỉ: Ấp M, xã M, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai cùng các lời khai trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa nguyên đơn bà Thái Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Văn B tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C vào ngày 08/02/2006. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân bất đồng quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã nên ông bà sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Thời gian sống ly thân bà nhiều lần tạo cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng vẫn không có kết quả. Do mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm dành cho nhau không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên bà M yêu cầu ly hôn ông B. Về con chung: Ông bà có hai con chung tên Nguyễn Phúc H1, sinh ngày 03/02/2007 và Nguyễn Phúc H, sinh ngày 01/12/2013. Bà M yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn B mặc dù đã được tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng ông B vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà Thái Thị M. Tại phiên tòa, ông B tiếp tục vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, của đương sự và đề xuất việc giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý giải quyết đúng quy định tại khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các văn bản tố tụng được niêm yết đúng quy định tại Điều 175, 177 và 179 BLTTDS 2015. Hội đồng xét xử, Thư ký tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về xét xử vụ án. Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS 2015. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Thái Thị M đối với ông Nguyễn Văn B.

- Về con chung: Đề nghị giao hai con chung Nguyễn Phúc H1, sinh ngày 03/02/2007 và Nguyễn Phúc H, sinh ngày 01/12/2013 cho bà M được nuôi dưỡng. Bà M không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Thái Thị M khởi kiện tranh chấp ly hôn với ông Nguyễn Văn B, ông B cư trú tại địa chỉ ấp M, xã M, thành phố L, nên Tòa án nhân dân thành phố L thụ lý giải quyết là phù hợp quy định tại khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Phiên tòa hôm nay mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do, bà M không yêu cầu hoãn phiên tòa. Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn Văn B.

[2] Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn B và bà Thái Thị M tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C vào năm 2006, nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình. Nguyên nhân ly hôn theo bà M trình bày, sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân bất đồng quan điểm sống nên ông bà sống ly thân từ năm 2017. Mặc dù bà đã cố gắng hàn gắn để xây dựng hạnh phúc gia đình, nhưng vẫn không có kết quả. Do mâu thuẫn trong hôn nhân đã trầm trọng, thời gian sống ly thân đã lâu, tình cảm dành cho nhau không còn nên bà M yêu cầu được ly hôn ông B.

[3] Theo Biên bản xác minh của Tòa án tại Công an xã M ngày 03/9/2019 thể hiện: Qua xác minh tại địa phương đối với đương sự Nguyễn Văn B, sinh năm 1973 có đăng ký thường trú tại địa chỉ: ấp M, xã M, thành phố L, An Giang.

[4] Qua lời trình bày của nguyên đơn và xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, nhận thấy, quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn B vắng mặt không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của bà M về tranh chấp ly hôn, về con chung, tài sản chung và nợ chung, không cung cấp, giao nộp chứng cứ và vắng mặt trong các buổi làm việc theo thông báo của Tòa án. Tại phiên tòa, ông B tiếp tục vắng mặt không có lý do là không có thiện chí hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử động viên bà M tạo cơ hội vợ chồng đoàn tụ, nhưng bà M vẫn kiên quyết ly hôn. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc thật sự cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Thái Thị M được ly hôn ông Nguyễn Văn B, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[5] Về con chung: Ông bà có hai con chung tên Nguyễn Phúc H1, sinh ngày 03/02/2007 và Nguyễn Phúc H, sinh ngày 01/12/2013. Bà M yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, thời gian ông bà sống ly thân con chung do bà M chăm sóc, nuôi dưỡng. Cháu H1 cũng có nguyện vọng được sống với bà M, nếu ba mẹ ly hôn. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho các con chung khi ông B và bà M ly hôn, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà M được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn.

Về cấp dưỡng nuôi con, cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, đây là quyền lợi của con chưa thành niên. Tuy nhiên, bà M là người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn, không yêu cầu ông B cấp dưỡng, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bà M phải tạo điều kiện cho ông B được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung. Việc nuôi con không cố định.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Bà M trình bày về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông B không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung và nợ chung, nên Hội đồng xét xử chưa xem xét giải quyết. Sau này đương sự tranh chấp, khởi kiện vụ kiện khác.

[7] Về án phí: Bà Thái Thị M phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; khoản 1; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 4, Điều 147; khoản 1, Điều 273; khoản 1, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1, Điều 51; khoản 1, Điều 56; khoản 2, Điều 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Điều 6; điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Thái Thị M được ly hôn ông Nguyễn Văn B.

2. Về con chung: Ông bà có hai con chung tên Nguyễn Phúc H1, sinh ngày 03/02/2007 và Nguyễn Phúc H, sinh ngày 01/12/2013.

Bà M được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung.

Ông B không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do bà M không yêu cầu.

Bà M phải tạo điều kiện cho ông B được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung. Việc nuôi con không cố định.

3. Về án phí: Bà Thái Thị M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004925, ngày 16/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Bà M đã nộp đủ tiền án phí.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự không có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2019/HN-ST ngày 17/12/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:144/2019/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về