Bản án 1436/2018/HNGĐ-ST ngày 16/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1436/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 16 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 415/2018/TLST-HNGĐ, ngày 22 tháng 8 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4371/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Đào A, sinh năm 1990 (vắng mặt)

Địa chỉ: Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Hsu, Yi-C, sinh năm 1987 (vắng mặt) Quốc tịch: Trung Quốc (Đài Loan)

Địa chỉ: phường C, thị trấn H, huyện B, Đài Loan.

Các đương sự đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 25/7/2018 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Trần Đào A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Hsu, Yi-C kết hôn trên cơ sở tự nguyện,có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 167 ngày 29/11/2016. Sau khi kết hôn, bà và ông Hsu, Yi-C chung sống hạnh phúc trong thời gian ngắn thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên bất đồng về quan điểm sống, tính tình và lối sống khác biệt. Sau đó ông Hsu, Yi-C quay về Đài Loan sinh sống và làm việc, còn bà vẫn ở lại Việt Nam. Kể từ đó bà và ông Hsu, Yi-C không còn liên lạc với nhau nữa. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, hôn nhân không hạnh phúc nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Hsu, Yi-C.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có. Vì bận việc, bà yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Tại bản tự khai ngày 25/7/2018 (được hợp pháp hóa lãnh sự ngày 02/8/2018 tại Sở ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh), bị đơn là ông Hsu, Yi-C xác nhận lời trình bày của bà A về thời điển kết hôn, về mâu thuẫn chung của vợ chồng; về con chung, tài sản chung và nợ chung là đúng. Nay bà A xin ly hôn, ông đồng ý được ly hôn với bà A. Do bận việc, ông yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn Trần Đào A, Hội đồng xét xử nhận thấy bà A và ông Hsu, Yi-C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn hiện đang cư trú tại Đài Loan nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án: Nguyên đơn và bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227; Điều 228; khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

 [3] Xét yêu cầu của bà Trần Đào A được ly hôn ông Hsu, Yi-C, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà A và ông Hsu, Yi-C thì thực tế sau khi kết hôn hai bên phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được. Từ khi kết hôn cho đến nay, bà A và ông Hsu, Yi-C không có quá trình chung sống lâu dài, do khoảng cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay bà A và ông Hsu, Yi-C đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy bà A yêu cầu ly hôn với ông Hsu, Yi-C là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [4] Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Trần Đào A và ông Hsu, Yi-C xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 [5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Trần Đào A chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Đào A được ly hôn với ông Hsu, Yi-C. Giấy chứng nhận kết hôn số 167 ngày 29/11/2016 do Ủy ban nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Đào A và ông Hsu, Yi-C không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Trần Đào A và ông Hsu, Yi-C xác định không có, Tòa không xét.

3. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Trần Đào A chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà A đã đóng tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2017/0049402, ngày 15/8/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trần Đào A đã nộp đủ tiền án phí.

4. Bà Trần Đào A được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông Hsu, Yi-C được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1436/2018/HNGĐ-ST ngày 16/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1436/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về