Bản án 143/2018/HS-ST ngày 10/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 143/2018/HS-ST NGÀY 10/05/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2018/HSST ngày 18 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Văn T (Phạm Anh T), sinh năm 1973 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Số nhà 6 Đ, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 8/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Đình Q, sinh năm 1949 và bà Phạm Thị M, sinh năm 1951; vợ: Nguyễn Thị X, sinh năm 1975 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30-8-1991 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, ngày 26-5-1993 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Cưỡng đoạt tài sản công dân” và tội “Chống người thi hành công vụ” (người được thi hành khoản tiền bồi thường chưa có đơn yêu cầu thi hành án), ngày 28-6-1993 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 15 tháng tù giam về tội “Cưỡng đoạt tài sản công dân”. Tổng hợp hình phạt cho 3 bản án trên là 39 tháng tù. Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Nam Định không quản lý hồ sơ thi hành án; tạm giữ từ ngày 12-01-2018 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 12-01-2018, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cây xăng số 199 đường T, phường N, thành phố N, phát hiện Phạm Văn T (Phạm Anh T) đang đứng một mình có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra thì T tự giác lấy trong miệng của T 01 gói nhỏ nilon màu đen giao nộp. Tổ công tác đã thu giữ gói nilon trên, mời người làm chứng mở kiểm tra gói nilon bên trong có 02 gói giấy bạc màu vàng, bên trong mỗi gói giấy bạc đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là 02 gói heroine). Tổ công tác đã niêm phong ký hiệu M, goài ra còn tạm giữ của T 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu xanh đã cũ. Tổ công tác đã đưa T về trụ sở tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Bản kết luận giám định số 44/GĐKTHS ngày 15-01-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định đều là chất ma tuý; loại chất ma tuý: Heroine; tổng khối lượng: 0,262 gam.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Văn T (Phạm Anh T) đã khai nhận: Khoảng 17 giờ 20 phút ngày 12-01-2018, T đi bộ đến khu vực đường T, thành phố N mua của người phụ nữ tên Hà (không rõ lý lịch) 02 gói heroine với giá 200.000 đồng mục đích để bán kiếm lời. Trong lúc đứng chờ người mua, T cho 02 gói heroine được bọc trong nilon màu đen vào miệng ngậm thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho T, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định, cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra để xác minh làm rõ, xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và khai nguyên nhân bị cáo phạm tội do bị cáo hám lời.

Bản cáo trạng số 148/CT-VKSTPNĐ ngày 16 tháng 4 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Phạm Văn T (Phạm Anh T) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn T (Phạm Anh T) về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo từ 27 tháng tù đến 33 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí HSST.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát  viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 12-01-2018, Phạm Văn T (Phạm Anh T) đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,262 gam mục đích để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt giữ tại khu vực đường Trần Nhân T, phường N, thành phố N. Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Văn T (Phạm Anh T) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khungHành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:  Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sựTrong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

4.3. Về hình phạt:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các qui định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần ấn định cho bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm mục đích bán thu lợi bất chính nhưng bị cáo chưa kịp bán ma túy nên chưa xác định được số tiền thu lợi bất chính.

Mặt khác, xét bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Số ma túy bị thu giữ trong phong bì niêm phong số 44/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

- 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu xanh đã thu giữ là tài sản riêng của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí Hình sự sơ thẩm.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T (Phạm Anh T) phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn T (Phạm Anh T) 27 (hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 12-01-2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 44/GĐKTHS;

- Trả lại cho bị cáo T 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu xanh đã thu giữ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí Hình sự sơ thẩm. (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Phạm Văn T (Phạm Anh T) phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật thi hành án Dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 143/2018/HS-ST ngày 10/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:143/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về