Bản án 142/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 142/2020/HS-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 138/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Trọng Th, sinh năm 1970 tại Bắc Ninh; thường trú: 256 C, khu phố 3, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng S, sinh năm 1929 (đã chết) và bà Trịnh Thị L, sinh năm 1931; có vợ tên Lại Thị B, sinh năm 1973 và 03 con, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại; có mặt;

2. Nguyễn Bá Q, sinh năm 1984 tại Nghệ An; thường trú: Tổ 1, khu phố P, phường Th, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá H, sinh năm 1961 và bà Hồ Thị K, sinh năm 1958; có vợ tên Đỗ Thị T, sinh năm 1983 và 03 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại; có mặt;

3. Hoàng Trung C, sinh năm 1976 tại Hà Nội; thường trú: Khu phố H, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Trung Q1, sinh năm 1940 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1940; có vợ tên Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1984 và 03 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại; có mặt;

4. Đào Văn Tr, sinh năm 1976 tại Thái Bình; thường trú: 1027/15 Nguyễn Chí T, tổ 73, khu phố 8, phường T, thành phố Th, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Ngọc H, sinh năm 1957 (đã chết) và bà Đinh Thị L, sinh năm 1955; có vợ tên Vi Thị T, sinh năm 1985 và 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hạp Tiến L, sinh năm 1978; thường trú: Xã C, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Bá Q, Hoàng Trung C, Đào Văn Tr có mối quan hệ quen biết với Nguyễn Trọng Th và Hạp Tiến L. L là cháu của Nguyễn Trọng Th.

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 14/4/2020, lần lượt Nguyễn Bá Q, Hoàng Trung C, Đào Văn Tr đi đến ki ốt do Nguyễn Trọng Th thuê tại khu phố M, phường Th, thị xã T, tỉnh Bình Dương để chơi. Khi đến nơi, Q, C và Tr gặp Th và L đang ăn cơm nên Th rủ vào cùng ăn cơm. Do cần tiền để trả nợ và mua hàng về bán nên Tr hỏi mượn L số tiền 10.000.000 đồng, L đồng ý và đưa tiền cho Tr rồi đi ra ngoài có công việc. Khoảng 10 phút sau, khi đang ngồi uống nước, Th lấy 01 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng có sẵn tại ki ốt và rủ Q, C và Tr cùng đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi bài phỏm; Q, C và Tr đồng ý. Th, Q, C và Tr thỏa thuận mỗi ván đặt cược từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng.

Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, nhận được tin báo của nhân dân, Công an phường Th tiếp hành kiểm tra hành chính ki ốt của Th và bắt quả tang Nguyễn Trọng Th, Nguyễn Bá Q, Hoàng Trung C, Đào Văn Tr đang thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền. Công an phường Th tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tại chiếu bạc 01 bộ bài tây loại 52 lá, đã qua sử dụng. Ngoài ra, Công an phường Th còn thu giữ trên người của Nguyễn Bá Q số tiền 11.200.000 đồng, Đào Văn Tr số tiền 29.100.000 đồng, Nguyễn Trọng Th 1.000.000 đồng, Hoàng Trung C số tiền 10.400.000 đồng.

Sau khi hoàn tất hồ sơ ban đầu, Công an phường Th đã chuyển Nguyễn Trọng Th, Nguyễn Bá Q, Hoàng Trung C, Đào Văn Tr cùng hồ sơ, vật chứng của vụ án cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận cụ thể như sau:

- Nguyễn Trọng Th khai Th rủ Q, C, Tr đánh bạc. Th sử dụng 12.500.000 đồng để đánh bạc, số tiền này Th để trong người, quá trình đánh bạc Th thua 11.500.000 đồng, khi bị bắt Th còn lại 1.000.000 đồng.

- Nguyễn Bá Q khai mang theo số tiền 13.000.000 đồng và sử dụng hết số tiền này để đánh bạc cùng với Th, C và Tr. Quá trình đánh bạc, Q thua 1.800.000 đồng, còn lại 11.200.000 đồng Q để ở trong người và bị thu giữ.

- Hoàng Trung C khai mang theo số tiền 12.500.000 đồng và sử dụng hết số tiền này để đánh bạc cùng Th, Q và Tr. Quá trình đánh bạc, C thua 2.100.000 đồng, khi bị bắt quả tang số tiền 10.400.000 đồng còn lại C cất giấu ở trong người.

- Đào Văn Tr khai đã sử dụng số tiền 3.700.000 đồng để tham gia đánh bạc, quá trình đánh bạc Tr thắng được 15.400.000 đồng, số tiền thắng Tr bỏ cùng với số tiền 3.700.000 đồng. Khi bị bắt quả tang Tr bị thu giữ ở túi quần bên phải số tiền 19.100.000 đồng. Ngoài ra, Tr còn bị thu giữ số tiền 10.000.000 đồng cất ở túi quần bên trái, số tiền này do Tr mượn của Hạp Tiến L và không sử dụng số tiền này để đánh bạc.

Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của Nguyễn Trọng Th, Hoàng Trung C, Nguyễn Bá Q, Đào Văn Tr về số tiền sử dụng tham gia đánh bạc vào ngày 14/4/2020 xác định: Tổng số tiền Th, Q, C, Tr sử dụng để đánh bạc là 41.700.000 đồng.

Số tiền 10.000.000 đồng thu giữ của Đào Văn Tr là số tiền thuộc sở hữu của ông Hạp Tiến L, ông L cho Đào Văn Tr mượn, Tr không sử dụng vào việc đánh bạc nên không liên quan việc đánh bạc. Tại phiên tòa, ông Hạp Tiến L xác định bị cáo Tr đã trả lại số tiền 10.000.000 đồng cho ông L, ông L không có yêu cầu gì khác.

Cáo trạng số 144/CT-VKSTU ngày 22/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố các bị cáo Nguyễn Trọng Th, Hoàng Trung C, Nguyễn Bá Q, Đào Văn Tr về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 35; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Th từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng;

+ Xử phạt bị cáo Hoàng Trung C từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 + Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá Q từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng;

+ Xử phạt bị cáo Đào Văn Tr từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 41.700.000 đồng và trả lại cho bị cáo Đào Văn Tr số tiền 10.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Các bị cáo không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thu tuc tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận: Ngày 14/4/2020, tại khu phố M, phường Th, thị xã T, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Nguyễn Trọng Th, Nguyễn Bá Q, Hoàng Trung C, Đào Văn Tr đã thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức bài phỏm thì bị bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 41.700.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội Đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng tại địa phương. Các bị cáo đều nhận thức được Nhà nước nghiêm cấm việc đánh bạc trái phép dưới mọi hình thức nhưng vì động cơ tư lợi mà vẫn bất chấp pháp luật, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung trong xã hội, đối với các bị cáo cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà mỗi bị cáo đã thực hiện. Xét thấy, các bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu nên áp dụng hình phạt tiền cũng đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo.

[4] Về vai trò: Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện tội phạm trong đó bị cáo Nguyễn Trọng Huấn là người rủ rê các bị cáo khác đánh bạc. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc vai trò, tính nguy hiểm của từng bị cáo cho phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc Tr hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; do đó các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng là công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 41.700.000 đồng là tiền các bị cáo thừa nhận đã sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Số tiền 10.000.000 đồng bị cáo Tr mượn của ông Hạp Tiến L không liên quan đến việc phạm tội, tại phiên tòa ông L xác định bị cáo Tr đã trả cho ông L 10.000.000 đồng và không có yêu cầu gì khác nên cần trả lại số tiền này cho bị cáo Tr.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trọng Th, Nguyễn Bá Q, Hoàng Trung C, Đào Văn Tr phạm tội “Đánh bạc”.

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 58 Bộ luật hình sự,

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Th 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng);

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá Q 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng);

- Xử phạt bị cáo Hoàng Trung C 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng);

- Xử phạt bị cáo Đào Văn Tr 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng;

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 41.700.000 đồng;

- Trả lại cho bị cáo Đào Văn Tr số tiền 10.000.000 đồng.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T)

3. Án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buôc các bị cáo Nguyễn Trọng Th, Nguyễn Bá Q, Hoàng Trung C, Đào Văn Tr mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:142/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về