Bản án 142/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 142/2019/HS-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24/10/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 138/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thanh T, sinh ngày 14/5/1997 tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh Q (đã chết) và bà Trần Thị H; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/2/2019 đến ngày 04/3/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị bắt truy nã, tạm giữ, tạm giam từ ngày 4/8/2019 đến đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Người bị hại: anh Phạm Thế A, sinh năm: 1991; Cư trú tại: Thôn Đ, xã T, huyện N, Nam Định; Vắng mặt

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Công ty TNHH TMDL và Dịch vụ Đức Anh; Trụ sở: Số 788, đường Q, phường P, quận H, Hà Nội do ông Nguyễn Xuân Đ làm đại diện; Vắng mặt.

3.2. Chị Tống Thị T1, sinh năm 1998; Cư trú tại: thôn N, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/02/2019 anh Phạm Thế A (Sinh năm: 1991; HKTT: Thôn Đ, xã T, huyện N, Nam Định; nhân viên lễ tân khách sạn Việt Đức địa chỉ Thôn G, xã V, huyện Đ, Hà Nội) và anh Nguyễn Xuân Đ (Sinh năm: 1986; HKTT: Phường Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội, chủ khách sạn Việt Đứcức) có đơn trình báo đến Công An huyện Đông Anh về việc bị kẻ gian trộm cắp chiếc xe máy Yamaha Exciter BKS: 18K1 – 349.41 trị giá khoảng 40.000.000 đồng và số tiền 2.025.000 đồng tại khách sạn Việt Đức thuộc Thôn G, xã V, huyện Đ, Hà Nội. Căn cứ vào trình báo và lời khai của anh Phạm Thế A cùng những tài liệu chứng cứ thu thập được, Cơ quan điều tra đã điều tra làm rõ Nguyễn Thanh T thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản, đã khởi tố vụ án, khởi tố , áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra xử lý. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định T bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Ngày 24/4/2019, Cơ quan điều tra ra Quyết định truy nã; Ngày 28/4/2019, Cơ quan điều tra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra . Ngày 04/8/2019, Nguyễn Thanh T bị bắt theo quyết định truy nã và khai nhận hành vi phạm tội.

Kết quả điều tra thể hiện:

Đầu tháng 2/2019, Nguyễn Thanh T xin làm nhân viên lễ tân (chưa ký hợp đồng lao động) tại Khách sạn “Việt Đức’’ địa chỉ: Thôn G, xã V, huyện Đ, Hà Nội do anh Nguyễn Xuân Đ (sinh năm 1986; HKTT: Phòng 2001, chung cư Tây Hà, Phường Trung Văn, Quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) làm chủ. Cùng làm nhân viên lễ tân tại khách sạn với T có anh Phạm Thế A (sinh năm 1991, HKTT: Thôn Đ, xã T, huyện N, Nam Định). Trong quá trình sinh hoạt và làm việc, T quan sát thấy anh Thế A thường để xe mô tô của anh Thế A nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS:18K1- 349.41, số khung: 0610HY428217, số máy: G3D4E448109 tại cuối hành lang tầng một trong khách sạn và để chìa khóa xe tại ngăn kéo quầy lễ tân nên T nảy sinh ý định trộm cắp mô tô của anh Thế A. Khoảng 19h30’ ngày 24/02/2019, anh Thế A hết ca làm việc bàn giao lại cho T số tiền 1.200.000đ (tiền khách thuê phòng trả) tiếp nhận ca làm việc sau. Khoảng 01h00’ngày 25/02/2019, T mở cửa phòng 101 thấy anh Thế A đang ngủ nên đến vị trí để chiếc xe mô tô BKS:18K1- 349.41 (để tại cuối hành lang tầng một khách sạn) dắt ra phía cửa khoảng hai mét thì dừng lại, dựng chân trống phụ. T quay lại khu vực quầy lễ tân rút nguồn điện camera và hệ thống WiFi để tránh bị phát hiện, rồi mở ngăn kéo tại quầy lễ tân lấy chìa khóa xe mô tô BKS:18K1- 349.41, mở khóa điện nổ máy xe rời khỏi khách sạn đi về Thanh Hóa. Trên đường đi, T kiểm tra túi thấy có 2.025.000đồng là tiền khách thuê phòng trả (trong đó anh Thế A giao lại 1.200.000đ và T thu của khách đến thuê phòng nghỉ là 825.000đồng) nên sử dụng tiêu sài cá nhân hết.

Khong 06h45’ ngày 25/02/2019 anh Thế A ngủ dậy không thấy T đâu, phát hiện bị mất chiếc xe mô tô BKS:18K1- 349.41. Nghi ngờ T đã trộm cắp, anh Thế A kiểm tra chiếc Ipad để tại quầy lễ tân thấy tài khoản Facebook Message “Nguyễn Thanh T” của T mở xem nội dung nhắn tin với tài khoản Facebook “Đỗ Minh T2” xác định có nội dung liên quan trộm cắp xe máy và rủ “Đỗ Minh T2” đi mua ma túy. Anh Thế A đã dùng điện thoại chụp lại hình ảnh các tin nhắn. Sau đó nhắn tin vào tài khoản “Tâm Tũn” của chị Tống Thị T1 (sinh năm 1998, HKTT: Thôn N, xã T, huyện H, Thanh Hóa - bạn gái của T) với nội dung nhờ T1 khuyên T mang xe mô tô trả lại cho anh Thế A. Đồng thời, anh Thế A đến Công an huyện Đông Anh trình báo sự việc bị trộm cắp tài sản và giao nộp 08 bức hình liên quan tin nhắn T trộm cắp xe máy.

Chị T1 sử dụng tài khoản Facebook “Tâm Tũn” nhắn tin tới Facebook “Nguyễn Thanh T” thông báo việc T trộm cắp xe đã bị phát hiện, động viên T mang xe mô tô lên trả cho anh Thế A. T sử dụng điện thoại mở Facebook “Nguyễn Thanh T” đọc được nội dung chị T1 nhắn tin, T đã sử dụng số thuê bao 0934467278 điện thoại đến số thuê bao 0981696762 của chị T1, chị T1 khuyên T mang xe mô tô đã trộm cắp trả lại cho anh Thế A. T mang chiếc xe mô tô BKS: 18K1- 349.41 đến gửi tại bãi gửi xe của ông Cao văn H1 (sinh năm 1957, HKTT: đường P, phương T, quận N, Hà Nội) địa chỉ tại đường P, phương T, quận N, Hà Nội. Trên đường đi gửi xe, chiếc BKS: 18K1-349.41 bị lỏng ốc, rơi ra, T kẹp BKS lên vị trí giá để hàng phía trước xe mô tô. Sau khi gửi xe xong, T liên lạc báo cho chị T1 địa điểm gửi xe và nhờ đến lấy xe trả cho anh Thế A. Khoảng 20h30’ ngày 25/02/2019, chị T1 liên hệ và cùng ông Nguyễn Thế C (sinh năm 1960; trú tại: Tổ 10, phường T, quận H, Hà Nội là bác của T) đến bãi gửi xe của ông H1, lấy chiếc xe mô tô BKS: 18K1- 349.41 mang đến khách sạn “Việt Đức” trả cho Thế A.

Ngày 06/3/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Đông Anh kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát 18K1- 349.41, số khung: 0610HY428217, số máy: G3D4E448109 của anh Thế A bị chiếm đoạt trị giá là: 40.000.000 đồng.

Khong 20h00’ ngày 26/02/2019, Nguyễn Thanh T đã đến Cơ quan điều tra - Công an huyện Đông Anh đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp chiếc xe máy BKS: 18K1- 349.41 của anh Thế A phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được có trong hồ sơ. T khai: Ngày 25/02/2019, sau khi trộm cắp xe máy của anh Thế A, T dùng điện thoại cá nhân đăng nhập tài khoản Facebook “Nguyễn Thanh T” rủ Đỗ Minh T2 (không rõ lai lịch) mua ma túy sử dụng và kể cho Đỗ Minh T2 việc trộm cắp xe máy. Sau đó T nhận được tin nhắn của chị T1 nên không liên hệ với Đỗ Minh T2 nữa và mang xe vào bãi xe gửi để trả. Trên đường đi T kiểm tra túi thấy có 2.025.000đồng là tiền khách thuê phòng trả, T không còn tiền cá nhân nên đã sử dụng tiêu xài hết tiền số tiền này.

Cơ quan điều tra tạm giữ vật chứng:

- Của chị Tống Thị T1: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển kiểm soát 18K1- 349.41, số khung: 0610HY428217, số máy: G3D4E448109. Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 2.025.000 đồng - Của anh Phạm Thế A: 01 USB nhãn hiệu SanDisk 8G màu xanh (lưu video hình ảnh Nguyễn Thanh T thời điểm trước khi camera bị rút nguồn). 08 (tám) tài liệu (phô tô) chụp màn hình điện thoại

- Của Nguyễn Thanh T: 01 điện thoại NoKia màu đen, số IMEL1: 356927094193269, số IMEL2: 356927094273269, lắp sim thuê bao số: 0934467278.

Đi với người có tài khoản Facebok “ Đỗ Minh T2” và các đối tượng bán ma túy cho T, tài liệu điều tra không xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đi với việc Nguyễn Thanh T mang theo và tiêu sài số tiền 2.025.000 đồng, T không có ý thức chiếm đoạt tiền của khách sạn “Việt Đức”. Chị T1 đã thay T giao nộp cho Cơ quan điều tra để khắc phục, vì vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý T về hành vi chiếm đoạt số tiền 2.025.000 đồng. Ngày 07/3/2019 Công an huyện Đông Anh ra quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Đ, anh Đ nhận lại và không có đề nghị gì khác.

Đi với xe mô tô nhãn nhãn hiệu Yamha Exciter, màu đen-xám BKS: 18K1-349.41; Số máy: G3D4E-448109; Số khung: RLCUG0610HY428217, kết quả tra cứu Phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội xác định chủ đăng ký xe là anh Phạm Thế A. Ngày 07/3/2019, Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho anh Phạm Thế A. Anh Thế A nhận lại tài sản, không đề nghị gì về dân sự, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho T.

Đi với 01 USB và 08 tài liệu phô tô chụp từ màn hình điện thoại đã tạm giữ của anh Thế A lưu giữ hình ảnh khi T thực hiện hành vi phạm tội, anh Thế A không đề nghị lấy lại; 01 điện thoại NoKia màu đen, lắp sim thuê bao số: 0934467278 tạm giữ của T là vật chứng của vụ án Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ chuyển Tòa án ND huyện Đông Anh giải quyết theo thẩm quyền.

Ti bản cáo trạng số 144/CT-VKSĐA ngày 25/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh truy tố Nguyễn Thanh T về tội: “Trộm cắp tài sản” khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoảng 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Thanh T từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về dân sự: Không ai yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 USB nhãn hiệu SanDisk 8G màu xanh; Tịch thu sung công 01 điện thoại NoKia màu đen, số IMEL1: 356927094193269, số IMEL2: 356927094273269, lắp sim thuê bao số: 0934467278

* Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng, đủ quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Thanh T tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 01h00’ngày 25/02/2019, tại khách sạn Việt Đức thuộc Thôn G, xã V, huyện Đ, Hà Nội bị cáo Nguyễn Thanh T đã có hành vi lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy Yamaha Exciter, biển kiểm soát 18K1- 349.41 của anh Phạm Thế A. Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Đông Anh ngày 06/3/2019 kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter của anh Thế A bị chiếm đoạt trị giá là: 40.000.000 đồng.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận ca Nguyễn Thanh T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố bị cáo là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[3]. Đối với việc bị cáo Nguyễn Thanh T mang theo và tiêu sài số tiền 2.025.000 đồng, T không có ý thức chiếm đoạt tiền của khách sạn “Việt Đức”. Bị cáo đã nhờ chị T1 đã thay T giao nộp cho Cơ quan điều tra để khắc phục, vì vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý T về hành vi chiếm đoạt số tiền 2.025.000 đồng.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo ăn năn hối cải; Bị cáo đã ra đầu thú; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo; Bị có có ông nội, bà nội có công với cách mạng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ thuộc điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn huyện Đông Anh. Bị cáo nhận thức đ- ược hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Song do tham lam tư lợi và coi th- ường pháp luật nên bị cáo vẫn cố tình phạm tội..

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự như đã nêu trên; căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; căn cứ nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Trong quá trình điều tra, bị cáo đã được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng bị cáo không chấp hành mà còn vắng mặt tại nơi cư trú nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã đối với bị cáo. Ngày 04/8/2019, bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã của Công an huyện Đông Anh. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Trước khi phạm tội, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 USB nhãn hiệu SanDisk 8G màu xanh; Tịch thu sung công 01 điện thoại NoKia màu đen, số IMEL1: 356927094193269, số IMEL2: 356927094273269, lắp sim thuê bao số: 0934467278 [6] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án.

Vì các lẽ trên, 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Điều 46, Điều 47, khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Xử phạt: Nguyễn Thanh T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/8/2019 nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 26/02/2019 đến ngày 04/3/2019. 2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo Khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017

 3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 USB nhãn hiệu SanDisk 8G màu xanh; Tịch thu sung công 01 điện thoại NoKia màu đen, số IMEL1: 356927094193269, số IMEL2: 356927094273269, lắp sim thuê bao số: 0934467278 (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/9/2019 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh).

4. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Án xử công khai sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáo về phần có liên quan.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:142/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về