Bản án 142/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 142/2019/HS-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 128/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu H, sinh năm 1988 tại tỉnh Quảng Nam; thường trú: Số 110, thôn 5, xã H, thành phố B, tỉnh Đăk Lắk; tạm trú: Số 132/5B khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; con ông Nguyễn Phú Q, sinh năm 1967 và bà Trần Thị Kim N, sinh năm 1967; bị cáo có 04 người em ruột, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2000; có vợ Phan Thanh T, sinh năm 1990; có 02 người con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Lê Trung H (đã chết), Người đại diện hợp pháp của bị hại:

+ Ông Lế Tấn H, sinh năm 1940; cùng thường trú: 118/6 đường L, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

+ Chị Hồ Thị Thanh S, sinh năm 1983; thường trú: 118/6 đường L, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

+ Cháu Lê Minh Cát T, sinh ngày 01/12/2003 và Lê Thành Đ, sinh ngày 15/10/2015.

Người đại diện hợp pháp: Chị Hồ Thị Thanh S, sinh năm 1983; thường trú: 118/6 đường L, khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Bị đơn dân sự: Bà Phạm Thị Thu H, sinh năm 1984; thường trú: 13/4 khu phố Đông B, phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Công ty TNHH TMDV – MTV Q; trụ sở tại 13/4 khu phố Đ, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp: Bà Phạm Thị Thu H, sinh năm 1984; thường trú: 13/4 khu phố Đ, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương, là giám đốc. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hữu H có giấy phép lái xe hạng C, là nhân viên lái xe cho Công ty TNHH TMDV-MTV Q (gọi tắt Công ty Q) do bà Phạm Thị Thu H làm giám đốc.

Ngày 21/4/2018, Nguyễn Hữu H điều khiển xe ô tô ben biển số 61C-261.56 từ Công ty Q, địa chỉ: 13/4 khu phố Đ, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương đi mỏ đá T thuộc tỉnh Đồng Nai lấy đá giao cho khách hàng tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 5 giờ cùng ngày, Nguyễn Hữu H điều khiển xe ô tô tải ben 61C-261.56 lưu thông trên đường D4 hướng từ trung tâm y tế thị xã Dĩ An đi ra đường M-T thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương để đi Đồng Nai. Khi đến giao lộ đường D4 và đường M –T thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Hữu H bật xi nhan điều khiển xe chuyển hướng sang phải. Do thiếu chú ý quan sát, Nguyễn Hữu H để cản trước đầu xe ô tô tải ben biển số 61C-261.56 đụng vào tay cầm lái bên trái xe mô tô biển số 53V3-5196 do anh Lê Trung H điều khiển đang lưu thông trên đường D4 theo hướng trung tâm y tế thị xã Dĩ An băng qua ngã tư D4 và Mỹ Phước Tân Vạn đến khu công nghiệp Tân Đông Hiệp B làm xe mô tô biển số 53V3-5196 ngã xuống đường bên phải xe ô tô tải ben biển số 61C-261.56, bị trục sau và bánh sau bên phải xe ô tô biển số 61C-261.56 cán qua xe mô tô và người anh H kéo lê đi 20m dẫn đến tai nạn giao thông. Hậu quả anh Lê Trung H chết tại chỗ, xe mô tô biển số 53V3-5196 bị hư hỏng nặng.

- Căn cứ kết luận giám định pháp y tử thi số 295/GĐPY ngày 24/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Nguyên nhân tử vong của anh Lê Trung H là đa chấn thương, chấn thương sọ não, vỡ lún xương hộp sọ, dập não.

- Căn cứ kết luận giám định số 119/HPL-PC54 ngày 17/5/2018 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Không tìm thấy thành phần Ethanol trong máu tử thi Lê Trung H.

- Căn cứ kết luận giám định số 93/GĐ-PC54 ngày 16/7/2018 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương về xác định điểm va chạm và cơ chế hình thành dấu vết giữa phương tiện xe ô tô tải ben biển số 61C-261.56 và xe mô tô biển số 53V3-5196, kết luận:

Điểm va chạm đầu tiên giữa xe ô tô tải ben biển số 61C-261.56 và xe mô tô biển số 53V3-5196 là phần cản trước bên trái của xe ô tô va chạm vào mặt ngoài đầu tay cầm lái bên trái xủa xe mô tô.

Cơ chế hình thành dấu vết của xe ô tô tải ben biển số 61C-261.56 và xe mô tô biển số 53V3-5196 là hai xe lưu thông cùng chiều trên đường D4 (hướng từ trung tâm y tế thị xã Dĩ An đến khu Công nghiệp Tân Đông Hiệp B), khi tới ngã tư giao với đường Mỹ Phước-Tân Vạn xe ô tô chuyển hướng rẽ phải vào đường Mỹ Phước-Tân Vạn thì xảy ra va chạm làm xe mô tô đổ ngã qua phải, chèn ép dưới gầm xe ô tô và bị ô tô kéo lê, cán qua tạo ra các dấu vết trên phương tiện, hiện trường gây tai nạn giao thông.

- Căn cứ biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 21/4/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An: Hiện trường là khu vực giao lộ ngã tư đường Mỹ Phước-Tân Vạn và đường D4; đường trải nhựa cứng, bằng phẳng, không có chướng ngại vật che khuất tầm nhìn; có đèn tín hiệu giao thông hoạt động. Hiện trường xảy ra tai nạn ở phần đường bên phải Mỹ Phước-Tân Vạn hướng từ cầu vượt đường sắt về quốc lộ 1K, đường có dãy phân cách bê tông chia làm hai phần đường, có dãy phân cách bê tông và vạch sơn phân làn đường cho các phương tiện lưu thông.

Lấy góc ngã tư, đầu dãy phân cách bê tông và trụ đèn tín hiệu giao thông làm điểm mốc cố định. Lấy mép lề phải của đường lưu thông chính làm mép lề chuẩn.

Xe ô tô ben biển số 61C-261.56 sau tai nạn dừng tại làn đường ô tô tải của đường Mỹ Phước-Tân Vạn, đầu xe hướng về quốc lộ 1K, đuôi xe hướng về cầu vượt đường sắt, trục bánh trước bên phải cách lề chuẩn 5,40m, trục bánh sau bên phải cách lề chuẩn 5,70m, cách trục bánh sau xe mô tô là 14,40m, trục bánh sau xe cách điểm mốc là 12,30m.

Xe mô tô biển số 53V3-5196 sau tai nạn bị ngã nghiêng bên phải, đầu xe hướng về cầu vướt đường sắt, đuôi xe hướng quốc lộ 1K, trục bánh trước cách lề chuẩn 7,70m, trục bánh sau cách lề chuẩn 7,50m, cách vị trí nạn nhân là 5,50m, cách góc ngã tư là 19,30m.

Vết cày đứt quãng do xe mô tô tạo ra trên mặt đường sau tai nạn có hình vòng cung hướng từ đường D4 ra đường Mỹ Phước-Tân Vạn.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Phạm Thị Thu H và bị cáo bồi thường cho gia đình bị hại 105.000.00đồng chi phí mai táng, 5.000.000đ chi phí sửa xe mô tô biển số 53V3-5196, chi phí cho con anh Lê Trung H ăn học là 195.000.000đ.

Xe ô tô tải ben biển số 61C-261.56 do chị Phạm Thị Thu H đứng tên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại xe cho chị H.

Xe mô tô biển số 53V3-5196 của anh Lê Trung H, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại xe cho người đại diện hợp pháp của anh H.

Tại cáo trạng số: 151/CT-VKS ngày 24 tháng 04 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về Tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H mức án từ 01 năm đến 02 năm tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng đã nêu, không tranh luận đối đáp về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 5 giờ ngày 21/4/2018, tại giao lộ đường D4 và đường Mỹ Phước-Tân Vạn thuộc khu phố Tân An, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Hữu H điều khiển xe ô tô tải ben biển số 61C -261.56 chuyển hướng rẽ phải, do thiếu chú ý, quan sát đụng vào xe mô tô biển số 53V3-5196 do anh Lê Trung H điểu khiển lưu thông cùng chiều gây tai nạn làm anh H chết tại chỗ vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ.

[2] Điều 18 Luật giao thông đường bộ qui định:

2. Trong khi chuyển hướng, người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải nhường quyền đi trước cho người đi bộ, người đi xe đạp đang đi trên phần đường dành riêng cho họ, nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác.….”.

Điều 260. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định.

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người …”

[3] Việc bị cáo không tuân thủ Luật giao thông đường bộ đã chuyển hướng thiếu chú ý quan sát gây tai nạn dẫn đến hậu quả làm một người chết, lỗi thuộc về bị cáo. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tội phạm do bị cáo thực hiện với lỗi vô ý nhưng thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính mạng của bị hại. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề an toàn giao thông và ra sức tuyên truyền cho Nhân dân chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông. Tuy nhiên, tình hình vi phạm giao thông đường bộ xảy ra ngày càng phức tạp và nghiêm trọng, là vấn đề nhức nhối trong xã hội hiện nay. Trên địa bàn thị xã Dĩ An, tình hình các vụ tai nạn giao thông xảy ra do các tài xế không chấp hành luật giao thông đường bộ ngày càng nhiều và đặc biệt trên tuyến đường Mỹ Phước-Tân Vạn đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho nhân dân khi tham gia giao thông. Do vậy, hành vi trên của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm tương xứng tính chất, mức độ hậu quả xảy ra. Hội đồng xét xử có xét đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo và bị đơn dân sự đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho đại diện người bị hại; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; là người lao động có nghề nghiệp ổn định, là lao động chính trong gia đình; gia đình đang gặp nhiều khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận; đang nuôi con nhỏ. Trong thời gian tại ngoại, bị cáo chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước và địa phương nơi cư trú.

[8] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn đủ để giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Cần thiết, tiếp tục áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 14/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 25/4/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, kể từ khi tuyên án cho đến khi Nguyễn Hữu H đi chấp hành án phạt tù.

[9] Về Trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Đối với quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, do vậy được chấp nhận.

[11] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Tiếp tục áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú 14/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 25/4/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, kể từ khi tuyên án cho đến khi Nguyễn Hữu H đi chấp hành án phạt tù.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Hữu H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

3. Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, bị đơn dân sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

432
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:142/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về