Bản án 14/2021/HS-ST ngày 03/06/2021 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 03/06/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 03 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Ngô Thị Hồng H, sinh năm: 1963, tại huyện M, tỉnh L; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 58, đường T, khu phố 1, Phường 1, thị xã K, tỉnh L; Nghề nghiệp: Thợ may; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô S và bà Trần Thị L1(đã chết); Chồng tên Nguyễn Tấn K1 (không đăng ký kết hôn và đã sống ly thân); Con có 1 người tên Nguyễn Đông Đ sinh năm 2006; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 23/9/2020, bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An xử phạt 89.500.000 đồng về hành vi “Buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” (Quyết định số: 3429/QĐ-XPVPHC); Nhân thân: Ngày 13/10/1983, bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An quyết định tập trung cải tạo thời hạn 03 năm về hành vi “Đánh bài, lừa đảo” (Quyết định số: 1663/QĐ-UB.83). Chấp hành xong ngày 02/9/1986, đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo được tại ngoại điều tra, cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắc như sau:

Tại bản cáo trang số 13/CT-VKSKT ngày 29 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã K, tỉnh Long An truy tố bị cáo Ngô Thị Hồng H về tội “Buôn bán hàng cấm”, theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hành vi phạm tội của bị cáo Hồng diễn biến như sau:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 29/01/2021, Ngô Thị Hồng H, sinh năm: 1963, hộ khẩu thường trú số 58, đường T, khu phố 1, Phường 1, thị xã K, tỉnh Long An điều khiển xe mô tô biển số 51V4-8433 vào khu vực biên giới thuộc ấp Ô, xã B, thị xã K gặp một người thanh niên (không rõ tên, địa chỉ) đặt mua 600 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero và 450 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Jet với số tiền 11.700.000 đồng mục đích mua thuốc lá điếu nhập lậu mang về bán lại cho các tiệm tạp hóa để kiếm lời. Số thuốc lá điếu nhập lậu nói trên được chứa trong 05 bịt nhựa màu đen, treo trên xe và Hoa chạy về đến khu phố 1, Phường 1, thị xã K khoảng 21 giờ 35 phút ngày 29/01/2021, thì bị Công an thị xã K tuần tra kiểm tra và bắt giữ.

Tang vật thu giữ: 1.050 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó: 600 bao thuốc lá hiệu HERO; 450 bao thuốc lá hiệu JET); 01 xe mô tô hiệu Yamaha, màu xanh biển số 51V4-8433.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Ngô Thị Hồng H về tội “Buôn bán hàng cấm”, theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa qua phần thẩm tra các chứng cứ Kiểm sát viên phát biểu quan điểm kết luận về vụ án và đề nghị xử lý vụ án như sau:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Thị Hồng H đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35; Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo H từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng như sau:

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hiệu Yamaha, màu xanh biển số 51V4-8433.

Tịch thu tiêu hủy: 1.050 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại (gồm 600 bao thuốc lá hiệu HERO; 450 bao thuốc lá hiệu JET).

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 190 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì hành vi phạm tội của bị cáo H có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Nhưng xét thấy bị cáo H đề nghị phạt tiền là hình phạt chính và bị cáo không làm nghề hoặc công việc quan trọng nên đề nghị miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo H chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định nộp ngân sách nhà nước.

Đối với người thanh niên bán thuốc lá điếu nhập lậu cho bị cáo H không biết tên và địa chỉ nên không đề cập xem xét trách nhiệm liên quan.

Về lời trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có nên không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố được tiến hành theo trình tự thủ tục, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Ngô Thị Hồng H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã nêu. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo để xét xử về tội “Buôn bán hàng cấm” là đúng người, đúng tội không oan. Lời khai nhận tội của bị cáo H tại phiên tòa hôm nay, được đối chiếu với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ đồ vật, tài liệu, lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa là phù hợp.

[3] Bị cáo Ngô Thị Hồng H vì muốn có thu nhập nhiều hơn đã mua 1.050 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại (gồm 600 bao thuốc lá hiệu HERO; 450 bao thuốc lá hiệu JET) mục đích để bán lại kiếm lời nhưng chưa bán được thì bị lực lượng tuần tra Công an thị xã K lập biên bản bắt quả tang cùng tang vật. Mặc dù số lượng thuốc lá điếu của bị cáo dưới mức quy định phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng bị cáo có 01 tiền sự vào ngày 23/9/2020, bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An xử phạt 89.500.000 đồng về hành vi “Buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” (Quyết định số 3429/QĐ-XPVPHC) nên hành vi của bị cáo H đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm” là phù hợp.

[4] Như vậy, đã có đầy đủ căn cứ pháp lý để kết luận rằng hành vi phạm tội của bị cáo Ngô Thị Hồng H đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm”. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã K, tỉnh Long An truy tố bị cáo H ra Tòa để xét xử theo điểm e khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự về quản lý kinh tế. Việc buôn bán hàng cấm sẽ làm xáo trộn nền kinh tế thị trường trong nước, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của địa phương. Hành vi phạm tội của bị cáo H đã bị pháp luật nghiêm cấm. Do đó, cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự để có một hình phạt đối với hành vi phạm tội mà bị cáo H đã gây ra mới giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội sau này và có tác dụng răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra bị cáo có tình tiết giảm nhẹ khác như: bản thân bị bệnh, được hưởng trợ cấp xã hội do nuôi trẻ mồ coi, được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Mặc khác tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo H thuộc lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế, bị cáo H có tài sản đủ khả năng thi hành hình phạt tiền là hình phạt chính. Do đó, đối với bị cáo H không cần áp dụng hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt chính là phạt tiền là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo H gây ra cũng có tác giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Quyết định số 2371/QĐ- TTg ngày 26 tháng 11 năm 2014 xử lý vật chứng như sau:

Tịch thu tiêu hủy: 1.050 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại (gồm 600 bao thuốc lá điếu hiệu HERO; 450 bao thuốc lá điếu hiệu JET).

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hiệu Yamaha, màu xanh biển số 51V4-8433.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 190 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì hành vi phạm tội của bị cáo H có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Nhưng xét thấy bị cáo H đề nghị phạt tiền là hình phạt chính và bị cáo không làm nghề hoặc công việc quan trọng nên miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

[9] Đối với người thanh niên bán thuốc lá điếu nhập lậu cho bị cáo H không biết tên và địa chỉ nên không đề cập xem xét trách nhiệm liên quan là phù hợp.

[10] Từ những nhận xét nêu trên xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ đúng pháp luật nên chấp nhận.

[11] Vế án phí: Theo quy định của pháp luật buộc bị cáo H phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Thị Hồng H đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Căn cứ điểm e Khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ngô Thị Hồng H số tiền là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) về tội “Buôn bán hàng cấm”.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sựQuyết định số 2371/QĐ-TTg ngày 26 tháng 11 năm 2014 xử lý vật chứng như sau:

Tịch thu tiêu hủy: 1.050 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại (gồm 600 bao thuốc lá điếu hiệu HERO; 450 bao thuốc lá điếu hiệu JET).

Tịch thu sung ngân sách nhà nước của bị cáo Ngô Thị Hồng H 01 xe mô tô hiệu Yamaha, màu xanh biển số 51V4-8433.

Các vật chứng này hiện Cơ quan Thi hành án dân sự thị xã K, tỉnh Long An đang quản lý (theo biên bản giao nhận ngày 19 tháng 5 năm 2021).

Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016. Buộc bị cáo Ngô Thị Hồng H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo Ngô Thị Hồng H báo cho biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HS-ST ngày 03/06/2021 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về