Bản án 14/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2021/TLST- HS ngày 06 tháng 5 năm 2021. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST - HS ngày 19 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Duy Kh, sinh ngày 11 tháng 8 năm 1998, tại Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn Bích Kh, xã Triệu L, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ văn hoá (học vấn) 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch:Việt Nam; con ông Đỗ Hưng, sinh năm 1972 và bà Lê Thị Hồng Hạnh, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn Bích Kh, xã Triệu L, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr; vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2021/HSST ngày 27/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 04 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/02/2021 đến ngày 15/4/2021. Hiện đang tại ngoại - Có mặt.

- Bị hại:

Bà Võ Thị Thu Nh, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn Đùng Hói B, xã Triệu L, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr- Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1987; Thôn An L, xã Triệu H, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr - Vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn Như L, xã Hải L, huyện Hải L, tỉnh Quảng Tr- Có mặt.

3. Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1999; nơi cứ trú: Thôn Hậu K, xã Triệu Th, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr - Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Ông Đỗ Thiên Tr, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn Bích Kh, xã Triệu L, huyện Triệu Ph, tỉnh Quảng Tr - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14/12/2020, Đỗ Duy Kh và Đỗ Thiên Tr cùng trú tại thôn Bích Kh, xã Triệu L, huyện Triệu Ph đi uống cà phê cùng với nhau. Trong lúc ngồi nói chuyện, Kh nhờ Tr tìm mua hộ chiếc điện thoại di động thì Tr bảo Kh đưa cho Tr 600.000 đồng Tr sẽ đưa cho Kh chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 của chị họ mình là Nguyễn Thị Thanh H nhờ sửa để dùng tạm. Kh giao cho Tr 600.000 đồng và lấy điện thoại về dùng. Tối ngày 14/12/2020, Kh mang điện thoại ra sử dụng, khi truy cập vào ứng dụng Facebook của điện thoại thì thấy Facebook có tên Thanhhang Nguyenthi chưa thoát đăng nhập nên Kh đã nảy sinh ý định dùng Facebook của chị H để chiếm đoạt tài sản của những người có tên trong list bạn bè Facebook của chị H.

Sau khi thay đổi mật khẩu Facebook, ngày 15/12/2020, Kh sử dụng Facebook “Thanhhang Nguyenthi” nhắn tin cho tài khoản Facebook có tên “Nh Võ” của chị Võ Thị Thu Nh giả vờ hỏi mượn chị Nh số tiền 3.000.000 đồng, do tưởng là chị H nên chị Nh đồng ý cho mượn 2.200.000 đồng. Kh hẹn chị Nh đến cây xăng Ái Tử để giao tiền. Để tránh bị chị Nh phát hiện, Kh đã sử dụng điện thoại của mình có thuê bao 034543026 gọi đến tổng đài Taxi của hãng Taxi Quảng Trị đến cây xăng Ái Tử để đón khách. Nhận được thông tin khách hàng anh Nguyễn Thanh T, điều khiển xe đến cây xăng Ái Tử rồi gọi điện cho Kh, Kh nhắn tin cho anh T nhờ nhận tiền giúp, anh T đồng ý. Do tin tưởng mượn tiền là thật nên chị Nh giao cho anh T số tiền 2.200.000 đồng. Để tiếp tục che dấu hành vi của mình, Kh sử dụng Facebook có tên Linh Hoài do Kh lập ra nhắn tin cho một Facebook có tên “Ai hiểu cho tôi” của anh Phạm Văn Đmạo danh tên một người bạn của Đ là Mạnh Lợn rồi đưa số điện thoại của anh T lái xe taxi nhờ liên lạc để nhận tiền giúp, do tin tưởng nên anh Đ đồng ý. Anh Đ liên hệ với anh T nhận số tiền 2.200.000 đồng thì bị tổ công tác Công an huyện Triệu Phong phát hiện mời về làm việc.

Tại bản cáo trạng số 14/CT - VKS - HS ngày 04/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong truy tố Đỗ Duy Kh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s, h khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt Đỗ Duy Kh từ 03 tháng đến 05 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giam từ ngày 24/02/2021 đến ngày 15/4/2021; về trách nhiệm dân sự: Bà Võ Thị Thu Nh và Bà Nguyễn Thị Thanh H đã nhận lại tài sản nên không xem xét; về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại kèm thẻ sim 0345343026 của Đỗ Duy Kh; về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thanh T và Phạm Văn Đkhông có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét; người làm chứng Đỗ Thiên Trxác nhận có cho bị cáo Đỗ Duy Kh mượn điện thoại của chị Nguyễn Thị Thanh H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Duy Kh khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 14/12/2020, Đỗ Duy Kh sử dụng điện thoại mà Đỗ Thiên Trcho mượn (điện thoại của chị Nguyễn Thị Thanh Hnhờ Đỗ Thiên Trđem đi sửa), khi Kh truy cập vào ứng dụng Facebook có tên Thanhhang Nguyenthi chưa thoát đăng nhập, Kh đã nảy sinh ý định dùng Facebook của chị H để chiếm đoạt tài sản. Để thực hiện ý định đó, Kh đã dùng thủ đoạn gian dối bằng cách sử dụng Facebook “Thanhhang Nguyenthi” nhắn tin cho tài khoản Facebook có tên “Nh Võ” của chị Võ Thị Thu Nh giả vờ hỏi mượn chị Nh số tiền 3.000.000 đồng, do tưởng là chị H nên chị Nh đồng ý cho mượn 2.200.000 đồng. Kh hẹn chị Nh đến cây xăng Ái Tử để giao tiền nhưng Kh không trực tiếp đến lấy mà nhắn tin nhờ anh Nguyễn Thanh T là nhân viên lái xe taxi nhận tiền giúp, chị Nh tin tưởng nên đã giao 2.200.000 đồng cho T để T chuyển số tiền này cho Kh. Hành vi của bị cáo Đỗ Duy Kh đã có đủ yếu tố cấu thành tội“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định xử phạt theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có tuổi đời còn trẻ, là thanh niên mới lớn nhưng do đua đòi ăn chơi nên sớm bộc lộ bản chất xem thường pháp luật, xem thường việc sở hữu tài sản của người khác mà dẫn đến con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự, trị an trên địa bàn huyện Triệu Phong và gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý một cách nghiêm khắc đối với bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhưng khi xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo vì: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Ngoài ra, bản thân bị cáo được phòng chính trị - sư đoàn 324 tặng danh hiệu chiến sĩ tiên tiến nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Sau khi xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và quá trình nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo là hết sức tinh vi, gây nguy hiểm cao cho xã hội, thông qua tài khoản mạng xã hội Facebook đưa ra những thông tin giả, không đúng sự thật để làm cho bị hại chị Võ Thị Thu Nh tin là thật và giao tài sản cho bị cáo. Bị cáo có sự chuẩn bị kỷ càng trước và sau khi thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ở hành vi bị cáo phát hiện phần mềm của tài khoản chị H chưa được bảo mật bằng số điện thoại nên Kh đã dùng số điện thoại của mình để nhập vào phần bảo mật, sau đó thay đổi mật khẩu thành “Hoài 118” để chiếm đoạt tài khoản facebook nhằm mục đích sau này sẽ mạo danh chủ tài khoản facebook nhắn tin lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi chiếm đoạt được tài sản của chị Võ Thị Thu Nh, Kh bảo anh T điều khiển xe taxi đến nhiều địa điểm khác nhau để giao tiền. Để tránh bị phát hiện, Kh còn lập một tài khoản facebook khác có tên là “Linh Hoài” để nhắn vào facebook của anh Phạm Văn Đvà mạo danh một người bạn của Đ là “Mạnh Lợn” để nhờ Đ nhận tiền từ anh T. Ngoài hành vi phạm tội bị xét xử lần này thì vào ngày 27/5/2021, bản thân bị cáo Kh bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xử phạt 04 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo Đỗ Duy Kh chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng; số tiền bị cáo chiếm đoạt không lớn 2.200.000 đồng và đã được trả lại cho bị hại; có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 15/2021/LCĐKNCT-TA ngày 20 tháng 4 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Triệu Phong. Tuy nhiên, đến ngày án có hiệu lực pháp luật không đủ 45 ngày nên Hội đồng xét xử tiếp tục ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo với thời hạn 45 ngày kể từ ngày xét xử để đảm bảo thi hành án.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với người bị hại:Bà Võ Thị Thu Nh đã nhận lại số tiền 2.200.000 đồng, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thanh H là chủ sở hữu của chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime, khi Đỗ Duy Kh dùng điện thoại của bà H để thực hiện hành vi phạm tội, bà H không biết nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà H là đúng. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra Công an huyện Triệu Phong đã trả lại điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime cho Bà Nguyễn Thị Thanh H, bà H không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với Ông Phạm Văn Đ và ông Nguyễn Thanh T là người mà Kh nhờ trực tiếp nhận tiền nhưng khi nhận tiền thì cả Đ và T đều không biết số tiền này do Kh phạm tội mà có. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong không xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự là có cơ sở. Quá trình giải quyết vụ án, Đ và T không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng:

Trong quá trình điều tra Công an huyện Triệu Phong đã xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime cho Bà Nguyễn Thị Thanh H và số tiền 2.200.000 đồng cho bà Võ Thị Thu Nh nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với vật chứng mà cơ quan Công an huyện Triệu Phong đã thu giữ 01 điện thoại di động kèm thẻ sim 0345343026 của Đỗ Duy Kh`, xét thấy đây là công cụ mà bị cáo dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Triệu Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm s, h khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt: Đỗ Duy Kh 03 (ba) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giam từ ngày 24/02/2021 đến ngày 15/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại kèm thẻ sim 0345343026 của Đỗ Duy Kh.

(Vật chứng nói trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, đặc điểm của các loại vật chứng này được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Triệu Phong và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Phong).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Đỗ Duy Kh phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Phong - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về