Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, tranh chấp cấp dưỡng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN, TRANH CHẤP CẤP DƯỠNG

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Nô xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 86/2021/TLST- HNGĐ, ngày 22 tháng 6 năm 2021, về: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, tranh chấp về cấp dưỡng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 01 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Cao Hoàng Y, sinh năm 1996 (Vắng mặt - có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn N, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Bị đơn: Anh Ngô Tấn T, sinh năm 1992 (Vắng mặt - có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn N, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 11/5/2021 và quá trình giải quyết vụ án, chị Cao Hoàng Y trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Hoàng Y và anh Ngô Tấn T kết hôn ngày 18/7/2018, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K, tỉnh Đăk Nông, việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống chị Y và anh T xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cuộc sống hôn nhân rất căng thẳng nên chị Y và anh T không còn chung sống từ năm 2020 đến nay. Hiện nay mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, không thể kéo dài, chị Y giữ nguyên yêu cầu ly hôn anh T.

- Về con chung: Chị Cao Hoàng Y và anh Ngô Tấn T có 01 con chung là Ngô Hoàng Bảo C, sinh ngày 05/12/2015. Chị Y có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con đến tuổi trưởng thành. Chị Y yêu cầu anh T cấp dưỡng hàng tháng cho con, mỗi tháng 1.000.000 đồng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Cao Hoàng Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án anh Ngô Tấn T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Ngô Tấn T đồng ý ly hôn chị Cao Hoàng Y.

- Về con chung: Anh Ngô Tấn T đồng ý giao con Ngô Hoàng Bảo C, sinh ngày 05/12/2015 cho chị Cao Hoàng Y trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con đến tuổi trưởng thành. Anh T đồng ý cấp dưỡng hàng tháng cho con, mỗi tháng 1.000.000 đồng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Anh Ngô Tấn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX và Người tham gia tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án; tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ các trình tự thủ tục quy định; người tham gia tố tụng chị Cao Hoàng Y và anh Ngô Tấn T chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: chị Cao Hoàng Y được ly hôn anh Ngô Tấn T. Về yêu cầu nuôi con chung: Giao con chung là Ngô Hoàng Bảo C, sinh ngày 05/12/2015 cho chị Cao Hoàng Y trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng cho con, mỗi tháng 1.000.000 đồng. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, xác định không có nợ chung nên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Buộc chị Cao Hoàng Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật. Buộc anh Ngô Tấn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, T diện chứng cứ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Cao Hoàng Y yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, giải quyết về con chung, cấp dưỡng. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, tranh chấp về cấp dưỡng”. Bị đơn anh Ngô Tấn T có nơi cư trú tại thôn N, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Krông Nô theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị Cao Hoàng Y và anh Ngô Tấn T đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Y, anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Hoàng Y và anh Ngô Tấn T kết hôn ngày 18/7/2018, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K, tỉnh Đăk Nông, việc kết hôn của anh chị trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp, kết hôn đúng theo Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Cao Hoàng Y. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chị Y và anh T xảy ra nhiều mâu thuẫn do không hợp nhau, không cùng quan điểm sống, vợ chồng anh chị đã không còn sống chung với nhau từ năm 2020 cho đến nay. Quan hệ hôn nhân phải dựa trên tình cảm, tình yêu thương từ cả hai phía vợ, chồng; dựa trên sự bình đẳng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Chị Y không còn tình cảm với anh T, vì vậy không đảm bảo được việc quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, chia sẻ với nhau những công việc gia đình và cùng nhau nuôi con chung trưởng thành. Hiện nay quan hệ hôn nhân không có khả năng hàn gắn, tình cảm yêu thương dành cho nhau không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Theo nội dung biên bản xác minh tại nơi chị Y và anh T sinh sống thì chính quyền không nắm được vợ chồng chị Y và anh T có mâu thuẫn hay không.

Tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình quy định về tình nghĩa vợ chồng:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

Tại điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Như vậy, xét yêu cầu khởi kiện của chị Y và quan điểm của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đối với nội dung vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của chị Cao Hoàng Y là có cơ sở nên cần chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Cao Hoàng Y và anh Ngô Tấn T có 01 con chung là Ngô Hoàng Bảo C, sinh ngày 05/12/2015. Chị Y có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con đến tuổi trưởng thành.

Anh T đồng ý giao con Ngô Hoàng Bảo C cho chị Y trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Từ thời điểm vợ chồng không còn sống chung từ năm 2020 cho đến nay chị Y là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ áp dụng Điều 58; 81; 82; 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao con chung là Ngô Hoàng Bảo C, sinh ngày 05/12/2015 cho chị Y trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Về yêu cầu cấp dưỡng: Chị Y yêu cầu anh T cấp dưỡng hàng tháng cho con Ngô Hoàng Bảo C, sinh ngày 05/12/2015, mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình quy định về nghĩa vụ, quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:“ ...2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con…”.

Tại khoản 1 Điều 107 của Luật hôn nhân và gia đình quy định: “1. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con..”.

Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên…” Xét thấy anh T là người đang trong tuổi lao động, có công việc ổn định, quá trình giải quyết vụ án, anh T đồng ý cấp dưỡng hàng tháng cho con Ngô Hoàng Bảo C, mỗi tháng 1.000.000 đồng. Căn cứ các điều 82, 107, 110, 116, 117, 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; cần chấp nhận yêu cầu của chị Y, buộc anh T cấp dưỡng hàng tháng cho con Ngô Hoàng Bảo C, mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi con đủ 18 tuổi và chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo Điều 118 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị Y, anh T thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn theo các điều 81, 82, 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chị Cao Hoàng Y phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô.

Anh Ngô Tấn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 4 Điều 147; điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 19; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 107; Điều 110; Điều 116; Điều 117; Điều 119 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Cao Hoàng Y.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Hoàng Y được ly hôn anh Ngô Tấn T.

2. Về con chung: Giao con chung là Ngô Hoàng Bảo C, sinh ngày 05/12/2015 cho chị Cao Hoàng Y trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Anh Ngô Tấn T cấp dưỡng hàng tháng cho con Ngô Hoàng Bảo C, mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi và chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 15 tháng 9 năm 2021.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Sau khi ly hôn chị Y, anh T có các quyền, nghĩa vụ theo các Điều 81, 82, 83, 84, 116 của Luật hôn nhân và gia đình như sau:

- Quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định tại khoản 1 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Cao Hoàng Y và anh Ngô Tấn T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

Chị Cao Hoàng Y phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0004205 ngày 18/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô. Hoàn trả chị Cao Hoàng Y số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Anh Ngô Tấn T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, tranh chấp cấp dưỡng

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về