Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA – TỈNH LONG AN

 BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1183/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 422/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thanh T, sinh năm 1991 Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

Bị đơn: Anh Lê Hùng D, sinh năm 1967 Địa chỉ; Ấp Đ, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Tạm trú: Ấp C, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

(Chị T có mặt, Anh D xin xét xử vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và quá trình giải quyết vụ án, Chị Lê Thanh T trình bày: Chị và Anh D chung sống với nhau vào năm 2007 không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chị và Anh D chung sống hạnh phúc, đến tháng 10 năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do Anh D quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và đánh chị nhiều lần, nên chị và Anh D đã ly thân nhau từ tháng 3 năm 2020 cho đến nay.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị và Anh D có 01 con chung tên Lê Thanh Tùng, sinh ngày 22/8/2015 hiện nay do chị đang nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Chị và Anh D không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

Nay chị xin ly hôn với Anh Lê Hùng D, khi ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi con chung tên Lê Thanh T và yêu cầu Anh D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

Tại lời trình bày của Anh Lê Hùng D: Anh xác định về thời gian, điều kiện chung sống, con chung, tài sản chung và nợ chung theo lời trình bày của Chị T là đúng. Thấy rằng cuộc sống hôn nhân giữa anh và Chị T không còn hạnh phúc, nguyên nhân là do mâu thuẩn về kinh tế, nên anh và Chị T xa mhau.

Nay Chị T xin ly hôn anh đồng ý, khi ly hôn anh đồng ý giao con cho Chị T tiếp tục nuôi, anh không cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Anh D đề nghị xin vắng mặt công khai chứng cứ, hòa giải và xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

1.1. Chị Lê Thanh T xin ly hôn với Anh Lê Hùng D là thuộc quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình.

1.2. Anh Lê Hùng D là bị đơn có địa chỉ tạm trú tại ấp Chánh, xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

1.3. Anh Lê Hùng D có đề nghị xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt Anh D theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

2.1. Chị Lê Thanh T cho rằng chị và Anh D chung sống hạnh phúc được một thời gian, đến tháng 10 năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do Anh D quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và Anh D đánh chị nhiều lần nên chị và Anh D đã ly thân nhau từ tháng 3 năm 2020 cho đến nay.

Đối với Anh Lê Hùng D có lời trình bày xác định cuộc sống hôn nhân giữa anh và Chị T phát sinh mâu thuẩn về kinh tế. Nay Chị T xin ly hôn anh đồng ý.

Tuy nhiên, do Chị T và Anh D chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2007 nhưng không có đăng ký kết hôn đã vi phạm Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử không công nhận giữa Chị Lê Thanh T và Anh Lê Hùng D là vợ chồng.

2.2. Về con chung: Chị T và Anh D chung sống có 01 con chung tên Lê Thanh Tùng, sinh ngày 22/8/2015 hiện do Chị T đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn Chị T xin tiếp tục được nuôi con chung. Đối với Anh D thì anh đồng ý giao con chung cho Chị T tiếp tục nuôi. Thấy rằng sự thỏa thuận về việc nuôi con giữa Chị T và Anh D là phù hợp với pháp luật, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Tại phiên tòa hôm nay Chị T yêu cầu Anh D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng. Đối với Anh D vắng mặt, nhưng tại bản tự khai Anh D không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Thấy rằng cháu Tùng là con chung của Chị T và Anh D, Chị T là người trực tiếp nuôi con nên Anh D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa hôm nay Chị T cho rằng Anh D làm nghề lái xe tải thu nhập hàng tháng khoảng 15.000.000đ. Để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển bình thường của cháu T, nên cần buộc Anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi cháu Tùng tròn 18 tuổi là phù hợp với Điều 107, 110, 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

2.3. Về tài sản chung: Chị T và Anh D khai không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

2.4. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu án phí ly hôn sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, khoản 1 Điều 228 và khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 14 Điều 53 Điều 81 Điều 82 Điều 83 và Điều 84 Điều 107 Điều 110 Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Lê Thanh T đối với Anh Lê Hùng D về việc “Xin ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận Chị Lê Thanh T và Anh Lê Hùng D là vợ chồng.

- Về con chung: Chị Lê Thanh T được tiếp tục nuôi con chung tên Lê Thanh T, sinh ngày 22/8/2015 (hiện do Chị T đang nuôi dưỡng). Anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi con tròn 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 01 năm 2021.

Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

2. Án phí: Buộc Chị Lê Thanh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sung vào ngân sách Nhà nước. Số tiền này được chuyển từ tiền tạm ứng án phí Chị T đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006725 ngày 28/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành, như vậy Chị T không phải nộp tiếp.

Buộc Anh Lê Hùng D phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con sung vào ngân sách nhà nước.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về