Bản án 14/2021/DS-ST ngày 28/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐH, TỈNH KT

BẢN ÁN 14/2021/DS-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đ. H, tỉnh Kon Tum, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 16/2021/TLST – DS ngày 04/01/2021 (Thụ lý cũ số 134/2020/TLST – DS ngày 13/11/2020) về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 13/2021/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-DS ngày 08/4/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2021/QĐST-DS ngày 07/5/202; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/QĐST-DS ngày 07/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank). Địa chỉ: 108 Trần Hưng Đ, quận Hoàn K, thành phố H.N. Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Đức Th – Chủ tịch HĐQT. Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Xuân Đ – Phó Giám đốc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh K. T. (Văn bản ủy quyền số 652/UQ-HĐQT-NHCT18 ngày 09/6/2020 của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam). Địa chỉ chi nhánh: 655 Nguyễn H, phường Q. Th, thành phố K. T, tỉnh K. T. Có mặt.

Bị đơn: Ông Lê Trọng Đ; sinh năm: 1975. Địa chỉ: Tổ dân phố 11 (Nay là tổ dân phố 10), thị trấn Đ. H, huyện Đ. H, tỉnh K. T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/10/2020, bản tự khai ngày 07/12/2020, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam ông Lê Xuân Đ trình bày:

Ngân hàng có ký hợp đồng cho vay số 145/2019-HĐCV/NHCT510 ngày 13/02/2019 với ông Lê Trọng Đại . Theo nội dung thỏa thuận thì ông Lê Trọng Đ thỏa thuận:

- Số tiền vay là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng);

- Số tiền giải ngân: 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng);

- Thời hạn vay: Từ ngày 13/02/2019 đến ngày 13/02/2020.

- Lãi suất trong hạn: 10.0 %/năm.

- Mức lãi suất phạt quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đang áp dụng tại thời điểm phát sinh nợ quá hạn.

- Mục đích vay: Bổ sung vốn chăm sóc cà phê.

Để đảm bảo cho khoản vay này ông Lê Trọng Đ đã thế chấp tài sản là: Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 193, tờ bản đồ 36. Được ủy ban nhân dân huyện Đ. H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CM 214541 ngày 30/01/2018, mang tên Lê Trọng Đ, tại thôn 8, xã N. W, huyện Đ. H, tỉnh K. T.

Theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 156/2018/HĐBĐ/NHCT 510 ngày 12/02/2018, được công chứng tại Phòng Công chứng Vũ Đăng Đ vào ngày 12/02/2018, số công chứng 445, quyển số 06 VP/CC-SCC/HĐGD. Được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ. H, tỉnh K. T số thứ tự 570 quyển số 01 ngày 12/02/2018 và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 156.1/2019/HĐBĐ/NHCT 510 ngày 13/2/2019, được công chứng tại Phòng Công chứng Vũ Đăng Đ vào ngày 13/2/2019, số công chứng 357, quyển số 07 VP/CC-SCC/HĐGD.

Sau khi giải ngân ông Lê Trọng Đ đã không thực hiện việc trả tiền gốc và lãi như đã cam kết với ngân hàng. Tính đến ngày 28/6/2021 ông Lê Trọng Đ mới trả được cho ngân hàng số tiền 71.534.397đồng. Trong đó gốc là: 56.657.600 đồng và lãi trong hạn 14.876.797 đồng. Còn nợ Ngân hàng là 309.522.112 đồng (Ba trăm lẻ chín triệu năm trăm hai mươi hai ngàn một trăm mười hai đồng ). Trong đó: Tiền gốc: 243.342.400 đồng và tiền lãi trong hạn là 15.123.203 đồng, lãi quá hạn là: 51.056.509 đồng. Việc ông Lê Trọng Đ không thanh toán nợ cho ngân hàng và vi phạm nghĩa vụ cam kết với Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam theo hợp đồng cho vay trên, gây khó khăn cho quá trình xử lý, thu hồi nợ của Ngân hàng.

Để đảm bảo quyền lợi của bên cho vay là Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, kính đề nghị Toà án nhân dân huyện Đ. H buộc ông Lê Trọng Đ phải thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng theo hợp đồng số 145/2019-HĐCV/NHCT510 ngày 13/02/2019, tính đến ngày 28/6/2021 là 309.522.112 đồng (Ba trăm lẻ chín triệu năm trăm hai mươi hai ngàn một trăm mười hai đồng ). Trong đó: Tiền gốc: 243.342.400 đồng và tiền lãi trong hạn là 15.123.203 đồng, lãi quá hạn là: 51.056.509 đồng. Và phải thanh toán phần lãi suất phát sinh cho đến khi trả hết khoản nợ đối với số nợ còn lại theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng trên.

Trường hợp ông Lê Trọng Đ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, thì ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án xử lý tài sản đã thế chấp tại Ngân hàng, toàn bộ số tiền thu được từ việc phát mãi tài sản đảm bảo được dùng để cấn trừ nghĩa vụ trả nợ của ông Lê Trọng Đ đối với Ngân hàng. Nếu số tiền phát mãi tài sản đảm bảo không đủ thanh toán hết khoản nợ ông Lê Trọng Đ tại Ngân hàng, thì ông Lê Trọng Đ phải có nghĩa vụ tiếp tục trả hết khoản nợ.

Về phía bị đơn: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho ông Lê Trọng Đ. Tuy nhiên, ông Đ đã không có mặt tại địa phương. Tại biên bản xác minh ngày 16/12/2020 tại Công an thị trấn Đăk Hà xác minh được ngày 16 tháng 12 năm 2020 ông Lê Trọng Đ đã chuyển hộ khẩu từ tổ dân phố 10, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum đến thôn Thanh C, xã H. N, huyện Ngh. S, tỉnh Th. H. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra địa chỉ trên thì Tòa án nhân dân huyện Đ. H xác định tỉnh Th. H không có huyện Ngh. S mà chỉ có thị xã Ngh.S. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Đ. H đã ra Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân thị xã Ngh.S, tỉnh Th. H.

Ngày 08/6/2021, Tòa án nhân dân thị xã Ngh. S, tỉnh Th. H có biên bản xác minh, trả lời anh Lê Trọng Đ không đăng ký tạm trú, thường trú và hiện cũng không có mặt tại tổ dân phố Thanh C, phường H. N, thị xã Ngh. S, tỉnh Th. H. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Đ. H đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho anh Lê Trọng Đ tại nơi cư trú cuối cùng là Tổ dân phố 10, thị trấn Đ. H, huyện Đ. H, tỉnh K. T. Tuy nhiên, anh Lê Trọng Đ vẫn vắng mặt không có lý do, nên đã gây khó khăn, kéo dài việc giải quyết vụ án. Toà án nhân dân huyện Đ. H đã tiến hành các thủ tục niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho anh Lê Trọng Đ.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ. H phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử.

Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án đã xem xét thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự và quan hệ pháp luật tranh chấp theo quy định tại Điều 26, Điều 35, Điều 68 BLTTDS. Đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ theo đúng quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng Dân sự.Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục hòa giải theo quy định.Trình tự thụ lý, việc cấp, gửi, tống đạt văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và đương sự đầy đủ đúng quy định tại Điều 195, 196 BLTTDS.

Về thời hạn chuẩn bị xét xử đúng theo quy định tại Điều 203 BLTTDS.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên Tòa đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

Đối với nguyên đơn: Kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn: Kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến ngày hôm nay, bị đơn ông Lê Trọng Đ không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

-Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được HĐXX xem xét và diễn biến tại phiên tòa hôm nay, nhận thấy:

Hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam với ông Lê Trọng Đ phù hợp với quy định của pháp luật. Nguyên đơn đã đưa ra được chứng cứ để chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình. Vì vậy, căn cứ vào Điều 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng. Đề nghị Hội đồng xét xử buộc ông Lê Trọng Đại phải trả cho Ngân hàng số tiền gốc và lãi tính đến tính đến ngày 28/6/2021 là 309.522.112 đồng (Ba trăm lẻ chín triệu năm trăm hai mươi hai ngàn một trăm mười hai đồng ). Trong đó: Tiền gốc: 243.342.400 đồng và tiền lãi trong hạn là 15.123.203 đồng, lãi quá hạn là: 51.056.509 đồng và lãi suất phát sinh cho tới khi trả hết nợ theo lãi suất trong hợp đồng. Trường hợp ông Lê Trọng Đ không trả được số tiền trên thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý các tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Về tiền án phí dân sự sơ thẩm và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ bị đơn phải chịu án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào ý kiến của đương sự tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam và bị đơn ông Lê Trọng Đ. Địa chỉ cuối cùng: Tổ dân phố 10, thị trấn Đ. H, huyện Đ. H, tỉnh K. T là tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ. H được quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

[2] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Lê Trọng Đ vắng mặt, Tòa án đã tiến hành tống đạt theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để thông báo thụ lý, triệu tập đương sự và các văn bản tố tụng khác cho bị đơn ông Lê Trọng Đ theo địa chỉ ghi trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp và cũng là nơi cư trú cuối cùng của bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Lê Trọng Đ tiếp tục vắng mặt. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Lê Trọng Đ.

[3] Về nội dung vụ án: Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam với bị đơn ông Lê Trọng Đ là hợp đồng giao dịch dân sự có bảo đảm. Theo đó, việc nguyên đơn với bị đơn có ký kết hợp đồng cho vay số 145/2019-HĐCV/NHCT510 ngày 13/02/2019 là trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc với tổng số tiền vay là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng), thời hạn vay kể từ ngày 13/02/2019 đến 13/02/2020, lãi suất tại thời điểm vay 10.0%/năm, mức lãi suất phạt quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đang áp dụng tại thời điểm phát sinh nợ quá hạn, mục đích vay để bổ sung vốn chăm sóc cà phê. Ông Lê Trọng Đ đã nhận đủ số tiền vay 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) thể hiện qua giấy lĩnh tiền ngày 13/2/2019.

Hội đồng xét xử xét thấy, việc bị đơn có ký hợp đồng tín dụng như nguyên đơn cung cấp là đúng sự thật. Trong quá trình vay ông Lê Trọng Đ đã vi phạm hợp đồng, không trả gốc và lãi suất cho Ngân hàng theo thỏa thuận. Số tiền mà ngân hàng đã tính đến ngày 28/6/2021 là 309.522.112 đồng (Ba trăm lẻ chín triệu năm trăm hai mươi hai ngàn một trăm mười hai đồng ). Trong đó: Tiền gốc: 243.342.400 đồng và tiền lãi trong hạn là 15.123.203 đồng, lãi quá hạn là: 51.056.509 đồng là chính xác, đúng quy định pháp luật. Bị đơn mới trả số tiền lãi tính đến ngày 28/6/2021 với số tiền là 71.534.397 đồng. Trong đó gốc là: 56.657.600 đồng và lãi trong hạn 14.876.797 đồng. Đến hạn thanh toán bị đơn đã không trả gốc và lãi phát sinh là đã vi phạm nghĩa vụ trả lãi theo quy định trong hợp đồng.

Do đó, ngân hàng làm đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán nợ gốc và lãi phát sinh cho đến ngày xét xử sơ thẩm là có căn cứ. Vì vậy, cần áp dụng các Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010, Điều 357 của Bộ luật dân sự 2015 để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

[5] Xét hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất: Trong hồ sơ vụ án đã thể hiện bị đơn có đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Hợp đồng thế chấp đều được chứng thực theo quy định và đã được đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký đất đai - Phòng tài nguyên và môi trường huyện Đ. H – tỉnh K. T. Như vậy, việc thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và toàn bộ tài sản trên đất là hợp pháp nên có giá trị đảm bảo thi hành. Do đó, hợp đồng đã có hiệu lực pháp luật và được chấp nhận khi bị đơn không trả được số tiền vay thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án giải quyết để thu hồi vốn là đúng pháp luật.

[6] Từ những nhận định trên: Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam buộc bị đơn ông Lê Trọng Đ phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam số tiền gốc và tiền lãi quá hạn tạm tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm 28/6/2021 là 309.522.112 đồng (Ba trăm lẻ chín triệu năm trăm hai mươi hai ngàn một trăm mười hai đồng ). Trong đó: Tiền gốc: 243.342.400 đồng và tiền lãi trong hạn là 15.123.203 đồng, lãi quá hạn là: 51.056.509 đồng. Đồng thời, tuyên xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 156/2018/HĐBĐ/NHCT 510 ngày 12/02/2018, được công chứng tại Phòng Công chứng Vũ Đăng Đ vào ngày 12/02/2018, số công chứng 445, quyển số 06 VP/CC-SCC/HĐGD. Được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ. H, tỉnh K. T số thứ tự 570 quyển số 01 ngày 12/02/2018 và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 156.1/2019/HĐBĐ/NHCT 510 ngày 13/02/2019, được công chứng tại Phòng Công chứng Vũ Đăng Đ vào ngày 13/02/2019, số công chứng 357, quyển số 07 VP/CC-SCC/HĐGD.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Lê Trọng Đ còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay số 145/2019-HĐCV/NHCT510 ngày 13/02/2019 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Sau khi án có hiệu lực pháp luật, nếu ông Lê Trọng Đ không trả khoản nợ trên thì Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự huyện Đ. H xử lý tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay là quyền sử dụng đất cũng như tài sản gắn liền với đất để thu hồi nợ là phù hợp.

Đối với số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm ngàn đồng) ông Lê Trọng Đ phải chịu toàn bộ và có trách nhiệm hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam .

* Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Lê Trọng Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Theo đó, số tiền án phí là 309.522.112 đồng x 5%) = 15.476.105 đồng (Mười lăm triệu bốn trăm bảy mươi sáu ngàn một trăm lẻ lăm đồng). Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 203; điểm b, khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 235; Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 351; Điều 352; Điều 353; Điều 357; Điều 463; Điều 466; Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; Điều 166, Điều 167, Điều 179 của Luật đất đai 2013;

Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” đề ngày 15/10/2020.

[1] Buộc ông Lê Trọng Đ phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam số tiền là 309.522.112 đồng (Ba trăm lẻ chín triệu năm trăm hai mươi hai ngàn một trăm mười hai đồng ). Trong đó: Tiền gốc: 243.342.400 đồng và tiền lãi trong hạn là 15.123.203 đồng, lãi quá hạn là:

51.056.509 đồng, tính đến hết ngày 28/6/2021. Theo hợp đồng cho vay số 145/2019-HĐCV/NHCT510 ngày 13/02/2019 đã ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam và ông Lê Trọng Đ.

Nếu ông Lê Trọng Đ không trả được nợ thì Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam được quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý đối với tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án gồm:

Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 193, tờ bản đồ 36. Được ủy ban nhân dân huyện Đ. H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CM 214541 ngày 30/01/2018, mang tên Lê Trọng Đ, tại thôn 8, xã Ng. W, huyện Đ. H, tỉnh K. T.

Theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 156/2018/HĐBĐ/NHCT 510 ngày 12/02/2018 ,được công chứng tại Phòng Công chứng Vũ Đăng Đ vào ngày 12/02/2018, số công chứng 445, quyển số 06 VP/CC-SCC/HĐGD. Được đăng ký thế chấp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ. H, tỉnh K. T số thứ tự 570 quyển số 01 ngày 12/02/2018 và văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 156.1/2019/HĐBĐ/NHCT 510 ngày 13/2/2019, được công chứng tại Phòng Công chứng Vũ Đăng Đ vào ngày 13/2/2019, số công chứng 357, quyển số 07 VP/CC-SCC/HĐGD.

[2] Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Lê Trọng Đ còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay số 145/2019-HĐCV/NHCT510 ngày 13/02/2019 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thì lãi suất mà ông Lê Trọng Đ phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam.

[3] Căn cứ Điều 157, Điều 158 Bộ luật tố tụng dân sự về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Là 3.200.000 đ (Ba triệu hai trăm ngàn đồng) ông Lê Trọng Đ phải chịu toàn bộ và có trách nhiệm hoàn trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam .

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng Điều 6; điều 18; khoản 1 Điều 24; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc ông Lê Trọng Đ phải chịu số tiền 15.476.105 đồng (Mười lăm triệu bốn trăm bảy mươi sáu ngàn một trăm lẻ lăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ. H, tỉnh K. T là 7.100.529 đồng (Bảy triệu một trăm ngàn năm trăm hai mươi chín đồng) theo biên lai số AA/2016/0004382 ngày 11 tháng 11 năm 2020.

[5] Trong thời hạn hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (28/6/2021) nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án để xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bị đơn ông Lê Trọng Đ vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6; 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/DS-ST ngày 28/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:14/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Hà - Kon Tum
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về