Bản án 14/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14/02/2020 tại Trụ sở tòa án nhân dân huyện GL, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2020/HSST ngày 20/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/QĐXXST-HS ngày 03/02/2020 đối với bị cáo:

PHẠM VĂN Q, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Thôn H, ĐX, NT, Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn H và bà Trương Thị Th; Bị cáo là con một, chưa có vợ con; TATS: Không; Bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 26/10/2019, đến ngày 01/11/2019 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Bùi Quang H, sinh năm 1986; Nơi cư trú: ĐB, MB, YS, Tuyên Quang. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 10 phút ngày 26/10/2019, tổ công tác Y20/141- Công an thành phố Hà Nội phối hợp cùng Đồn Công an BĐ thuộc Công an huyện GL, Hà Nội làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực DL, YT, GL, Hà Nội đã kiểm tra Bùi Văn H đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS: 98Y1-7154 phía sau chở 1 Phạm Văn Q. Quá trình kiểm tra phát hiện Q có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã bàn giao Q cùng vật chứng cho Đồn Công an BĐ lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn Q.

Vật chứng thu giữ của Phạm Văn Q: 04 (bốn) túi nilon màu trắng bên trong các túi chứa tinh thể màu trắng; 01 ví cầm tay hình chữ nhật màu đen, 01 điện thoại Samsung màu vàng xám. Thu giữ của H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmigo màu đen, 01 xe máy Honda Wave BKS: 98Y1-7154 và đăng ký xe.

Tại Kết luận giám định số 6839/KLGĐ-PC09 ngày 04/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 04 túi nilon đều là ma túy Methaphetamine, tổng khối lượng 0,420 gam Tại cơ quan điều tra Phạm Văn Q khai nhận: Q là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 13h40” ngày 26/10/2019, Q đang ở khu vực Đ.A, Hà Nội và sử dụng điện thoại đặt xe ôm đi TS, Bắc Ninh để mua ma túy về sử dụng. Bùi Quang H là lái xe ôm Grab điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX, BKS: 98Y1-7154 đến chở Q. Khi đến khu vực Chùa D, TS, Bắc Ninh, Q bảo H đứng chờ ở ven đường còn Q đi bộ vào một ngõ nhỏ, đến trước một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín, qua khe cửa Q mua của người đàn ông (không rõ nhân thân) 04 gói ma túy đá với giá 400.000đồng. Sau khi mua được ma túy, Q cất vào ví cầm ở tay phải rồi đi ra chỗ H đang đứng chờ và bảo H chở về Hà Nội. Khi đi đến khu vực DL, YT, GL thì bị cơ quan Công an kiểm tra, bắt giữ cùng vật chứng.

Đối tượng bán ma túy cho Q không xác định được nhân thân nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc điện thoại di động Samsung màu xám thu giữ của Q, bị can đã sử dụng liên lạc gọi phương tiện đi mua ma túy, chiếc ví thu giữ của bị can Q dùng để cất giữ ma túy.

Đối với Bùi Quang H đi xe máy chở Phạm Văn Q, bản thân H không biết Q có ma túy trong người, do vậy cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với H.

Chiếc xe máy Honda Wave BKS: 98Y1-7154 số máy: 2113335, số khung 378826 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmigo thu giữ của H không liên quan đến hành vi phạm tôi của Q. Ngày 02/12/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện GL đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe máy và 01 đăng ký xe, 01 điện thoại trên cho anh Bùi Quang H.

Bản Cáo trạng số 03/CT-VKSGL ngày 08/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện GL đã truy tố Phạm Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

2 Tại phiên tòa, Phạm Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GL giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa, sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Văn Q từ 18 tháng tù đến 22 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2019.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong 0,368gam Methaphetamine (đã trích mẫu giám định 0,052 gam); Tịch thu sung công: 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu xám và 01 chiếc ví thu giữ của bị cáo Q.

Bị cáo không có tranh luận gì bổ sung thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn Q khai nhận toàn bộ nội dung vụ việc phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ 10 phút ngày 26/10/2019, tại khu vực DL, YT, GL, Hà Nội, bị cáo Phạm Văn Q có hành vi tàng trữ trái phép 0,420 gam Methaphetamine, mục đích để sử dụng thì bị cơ quan Công an kiểm tra, bắt giữ cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức được ma túy bị nhà nước cấm người dân lưu hành. Bị cáo cũng hiểu rõ tác hại của ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình và lây lan các bệnh truyền nhiễm, nhưng bị cáo vẫn cố tình phạm tội thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Bị cáo phạm tội nghiêm trọng nên cần tiếp tục cách ly ra khỏi đời sống xã hội mội thời gian nữa mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo 3 thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối tượng bán ma túy cho Q do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với anh Bùi Quang H đi xe máy chở bị cáo Q, nhưng H không biết Q đi mua ma túy và cất giữ trong người, do vậy chiếc xe máy Honda Wave BKS: 98Y1- 7154 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmigo thu giữ của H không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Q. Cơ quan Công an đã trả chiếc xe máy Honda Wave BKS: 98Y1-7154 và 01 đăng ký xe, 01 điện thoại trên cho anh Bùi Quang H và không xử lý đối với anh H là phù hợp.

[2] Về những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cơ bản phù hợp với kết quả nghị án của Hội đồng xét xử.

[3] Đánh giá về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, không có ai khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, nhưng xét thấy bị cáo không có thu nhập do không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt này đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong 0,368gam Methaphetamine (đã trích mẫu giám định 0,052 gam Methaphetamine); 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu xám và 01 chiếc ví thu giữ của Q do bị cáo sử dụng trong quá trình phạm tội nên cần tịch thu sung công.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo pháp luật quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Phạm Văn Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Điều 136; Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Q 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2019.

*Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo

*Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong 0,368gam Methaphetamine; Tịch thu sung công: 01 chiếc điện thoại di động Samsung màu vàng xám và 01 chiếc ví thu giữ của bị cáo Q. (Tình trạng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện GL và Chi cục thi hành án dân sự huyện GL ngày 10/01/2020).

- Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

Án xử công khai, sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về