Bản án 14/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội đe dọa giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI ĐE DỌA GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2020/TLST-HS, ngày 02 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST-HS, ngày 29 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh L, sinh năm: 1993, tại huyện C, tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh L (sống) và bà Huỳnh Thị D (sống); có vợ và con: không; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/3/2020 cho đến nay “Có mặt”.

* Bị hại: Lê Văn T (Lê Kim T), sinh năm: 1986; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Có mặt”.

* Người làm chứng:

- Trần Quang H, sinh năm: 1980; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Có mặt”.

- Trương Văn Đ, sinh năm: 1987; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Có mặt”.

- Trần Văn Ch, sinh năm: 1984; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Có mặt”.

- Trần Văn Ngh, sinh năm: 1994; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Vắng mặt”.

- Trương Hải Đ, sinh năm: 1988; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Vắng mặt”.

- Huỳnh Hải Đ, sinh năm: 1994; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Vắng mặt”.

- Dương Bữu Kh, sinh năm: 1986; Cư trú tại: Ấp 1, xã V, huyện A, tỉnh An Giang “Vắng mặt”.

- Lương Trí H, sinh năm: 1981; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Vắng mặt”.

- Nguyễn Hữu T, sinh năm: 1997; Cư trú tại: Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 09/11/2019, Lê Văn T (Lê Kim T), cư trú: ấp Ấp A, xã A, huyện, tỉnh Sóc Trăng đang tổ chức uống bia cùng với Trần Quang H, Trần Văn Ch, Trần Văn Ngh, Trương Văn Đ, Trương Hải Đ, Lương Trí H, Dương Hữu Khanh và Công (không rõ họ, tên) tại quán A Thống thuộc ấp An Nghiệp, xã An Thạnh 3, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Trong lúc uống bia thì Lê Văn T và Trương Văn Đ ra trước quán A Thống để đi vệ sinh, lúc này có Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 83D1-154.14 chở Nguyễn Thanh L chạy ngang thấy Trần Văn Ngh thì L chửi “thằng chó” rồi chạy xe đi. Khoảng 20 phút sau thì T chở L chạy ngang quán A Thống một lần nữa, lúc này L cầm theo cây súng hơi tự chế màu đen, trên thân súng có dòng chữ màu trắng “AIRFORCE”, không có số hiệu, không có ký hiệu, chiều dài thân súng dài 73cm, ống ngắm dài 41cm, L bắn một phát gây tiếng nổ rồi chạy đi. Sau đó, L về nhà Huỳnh Hải Đ để cất súng và tiếp tục lại quán bà Hường nhậu (vì trước đó L cùng với một vài người bạn của L uống rượu, bia tại quán bà Hường). Khoảng 10 phút sau thì T gọi điện thoại cho L và hỏi “mày ghét ai trong đây mà đi ngang mày chọi pháo”, L trả lời “có ghét ai đâu, có pháo đâu mà chọi”, T nói “mày không ghét ai sao mày làm vậy”, L nói “nếu anh ghét em hay muốn đánh em thì em lên cho anh đánh” thì T kêu L “chạy lên đây có gì nói chuyện”, nói xong L kêu T lấy xe chở lại nhà Huỳnh Hải Đ lấy cây súng, khi đi gần đến quán A Thống cách khoảng 20 mét thì L kêu T dừng xe lại và L ném cây súng xuống lề cỏ cặp mé lộ. Sau đó, L và T cùng đi vào trong quán đến bàn của T đang ngồi uống bia, L uống khoảng 01 đến 02 ly bia thì giữa L và T nói chuyện qua lại, T lại hỏi L “mày ghét ai trong đây mà mày chọi pháo”, L trả lời “có ghét ai đâu, mà cũng không có pháo đâu mà chọi, bộ anh tính đánh em hả anh T, em sắp đi tù rồi mà anh còn đánh em hả, anh muốn đánh thì đánh đi”, nói xong L khom đầu đưa vào người T, thì T dùng tay đánh vào mặt và đầu của L 02 cái thì được những người ngồi chung trong bàn can ra. Lúc này, L chạy ra ngoài tìm cây súng, khoảng 05 phút sau L dùng hai tay cầm cây súng đi vào chổ bàn nhậu của T. L đứng cách T khoảng 03 mét chĩa nòng súng vào ngang ngực T và nói “Bửa nay tao bắn mày chết mẹ mày”, thấy vậy T hoảng sợ và bỏ chạy vào trong quán A Thống trốn, lúc này L rượt theo T thì bị Đ chạy đến ôm L lại và dùng tay đè nòng súng xuống sân, còn H thì giật lấy cây súng trên tay của L và đem ném cây súng gần khu vực ao tôm gần quán A Thống, thấy vậy Đ mới thả L ra. Do thấy L cầm súng đe dọa bắn T, nên Đ (là người cùng ngồi nhậu chung với T gọi điện thoại báo Công an xã), nên lực lượng Công an đến lập biên bản phạm tôi quả tang và mời T, L về Công an xã làm việc. Khi sự việc xảy ra thì trong đêm 09/11/2019 L điện cho T và nói những lời lẽ hăm dọa T như “mày làm cặc gì tao, tao mà ra ngoài thì ngày mai mày sẽ biết, mầy không yên với tao đâu”, “mai tao cho anh em tao qua nhà tìm giết mày, mày không yên với tao đâu”. Do sợ L trả thù và cho người tìm giết T, nên rất nhiều ngày T không dám đi ra ngoài đường, lúc nào cũng sợ bị L giết, nên T trình báo Công an xã An Thạnh 3 sự việc trên.

Căn cứ Kết luận giám định số 5098/C09B ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Phân viện khoa học Hình sự tại TP. Hồ Chí Minh kết luận như sau:

- Khẩu súng gửi giám định là loại súng săn, không rõ nước sản xuất và không phải là vũ khí quân dụng. Súng để bắn với đạn mũi dù cỡ 6mm. Hiện tại súng có đủ các bộ phận lắp ráp đúng vị trí và hoạt động bình thường. Sử dụng khẩu súng nêu trên bắn với đạn mũi dù 6mm vào cơ thể người có thể gây sát thương.

- Để xác định tầm sát thương của khẩu súng nêu trên đề nghị Cơ quan CSĐT Công an huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng tổ chức bắn thực nghiệm.

- Lực đẩy của khí trong bình qua nòng súng không có khả năng gây chết người.

- 01 (một) viên đạn gửi giám định là đạn mũi dù cỡ 6mm, dùng cho các loại súng bắn bằng khí nén có đường kính trong nòng 6mm.

Sau khi vụ việc xảy ra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cù Lao Dung đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, lấy lời khai bị cáo, người bị hại, người làm chứng.

Căn cứ vào tình tiết, nội dung vụ án và các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Cù Lao Dung đã thu thập được, xét thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đe dọa giết người”, được quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự và áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 23/3/2020 cho đến nay.

Vật chứng trong vụ án: Trong quá trình điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cù Lao Dung đã quyết định thu giữ: 01 (một) khẩu súng bắn bằng hơi tự chế, màu đen, trên thân súng có dòng chữ “AIRPORCE”, không có số hiệu, không có ký hiệu, chiều dài thân súng dài 73cm, ống ngắm dài 41cm;

01 (một) cục kim loại hình trụ (đạn nấm chì) màu xám có kích thước 0,6 x 0,4cm.

Tại bản cáo trạng số: 12/CT-VKS.CLD, ngày 02 tháng 6 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung để xét xử Nguyễn Thanh L về tội “Đe dọa giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 133 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cáo trạng số: 12/CT-VKS.CLD, ngày 02 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung xử bị cáo Nguyễn Thanh L về tội “Đe dọa giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 133 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ sau:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại phiên tòa bị cáo cũng đã có lời xin lỗi đến bị hại, bị cáo có người thân có công với cách mạng. Đồng thời, trong vụ án này lẽ ra sự việc không đi đến mâu thuẫn nghiêm trọng, nhưng do bị hại cũng có hành vi dùng tay đánh bị cáo 02 bạt tay. Do đó, bị hại cũng có 01 phần lỗi. Ngày 24 tháng 02 năm 2020 bị cáo Nguyễn Thanh L bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng tuyên xử 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Có ý gây thương tích”. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 133; điểm s khoản 1, khoan 2 Điều 51, Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thanh L từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù. Tổng hợp hình phạt tù 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù của bản án số 28/2020/HSPT, ngày 24 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại T không có yêu cầu gì, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Về xử lý vật chứng của vụ án (Các biện pháp tư pháp): Vật chứng của vụ án là: 01 (một) khẩu súng bắn bằng hơi tự chế, màu đen, trên thân súng có dòng chữ “AIRPORCE”, không có số hiệu, không có ký hiệu, chiều dài thân súng dài 73cm, ống ngắm dài 41cm; 01 (một) cục kim loại hình trụ (đạn nấm chì) màu xám có kích thước 0,6 x 0,4cm là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu, tiêu hủy. Về án phí hình sự: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị hại Lê Văn T:

+ Về trách nhiệm hình sự: Yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét xử phạt hành vi của bị cáo theo đúng quy định của pháp luật.

+ Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu gì.

- Ý kiến của bị cáo L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung đã truy tố, bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi của mình đã gây ra, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cù Lao Dung, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với những người làm chứng là Trần Văn Ngh, Trương Hải Đ, Huỳnh Hải Đ, Dương Bữu Kh, Lương Trí H, Nguyễn Hữu T vắng mặt tại phiên tòa. Do trước đó những người làm chứng đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, việc vắng mặt của họ tại phiên tòa hôm nay không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt những người làm chứng Trần Văn Ngh, Trương Hải Đ, Huỳnh Hải Đ, Dương Bữu Kh, Lương Trí H, Nguyễn Hữu T.

[3] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Thanh L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là: Vào khoảng 19 giờ ngày 09/11/2019, Lê Văn T (Lê Kim T), cư trú: ấp An Nghiệp, xã An Thạnh 3, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng đang tổ chức uống bia cùng với Trần Quang H, Trần Văn Ch, Trần Văn Ngh, Trương Văn Đ, Trương Hải Đ, Lương Trí H, Dương Hữu Khanh và Công (không rõ họ, tên) tại quán A Thống thuộc ấp An Nghiệp, xã An Thạnh 3, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Trong lúc uống bia thì Lê Văn T và Trương Văn Đ ra trước quán A Thống để đi vệ sinh, lúc này có Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 83D1-154.14 chở Nguyễn Thanh L chạy ngang thấy Trần Văn Ngh thì L chửi “thằng chó” rồi chạy xe đi. Khoảng 20 phút sau thì T chở L chạy ngang quán A Thống một lần nữa, lúc này L cầm theo cây súng hơi tự chế màu đen, trên thân súng có dòng chữ màu trắng “AIRFORCE”, không có số hiệu, không có ký hiệu, chiều dài thân súng dài 73cm, ống ngắm dài 41cm, L bắn một phát gây tiếng nổ rồi chạy đi. Sau đó, L về nhà Huỳnh Hải Đ để cất súng và tiếp tục lại quán bà Hường nhậu (vì trước đó L cùng với một vài người bạn của L uống rượu, bia tại quán bà Hường). Khoảng 10 phút sau thì T gọi điện thoại cho L và hỏi “mày ghét ai trong đây mà đi ngang mày chọi pháo”, L trả lời “có ghét ai đâu, có pháo đâu mà chọi”, T nói “mày không ghét ai sao mày làm vậy”, L nói “nếu anh ghét em hay muốn đánh em thì em lên cho anh đánh” thì T kêu L “chạy lên đây có gì nói chuyện”, nói xong L kêu T lấy xe chở lại nhà Huỳnh Hải Đ lấy cây súng, khi đi gần đến quán A Thống cách khoảng 20 mét thì L kêu T dừng xe lại và L ném cây súng xuống lề cỏ cặp mé lộ. Sau đó, L và T cùng đi vào trong quán đến bàn của T đang ngồi uống bia, L uống khoảng 01 đến 02 ly bia thì giữa L và T nói chuyện qua lại, T lại hỏi L “mày ghét ai trong đây mà mày chọi pháo”, L trả lời “có ghét ai đâu, mà cũng không có pháo đâu mà chọi, bộ anh tính đánh em hả anh T, em sắp đi tù rồi mà anh còn đánh em hả, anh muốn đánh thì đánh đi”, nói xong L khom đầu đưa vào người T, thì T dùng tay đánh vào mặt và đầu của L 02 cái thì được những người ngồi chung trong bàn can ra. Lúc này, L chạy ra ngoài tìm cây súng, khoảng 05 phút sau L dùng hai tay cầm cây súng đi vào chổ bàn nhậu của T. L đứng cách T khoảng 03 mét chĩa nòng súng vào ngang ngực T và nói “Bửa nay tao bắn mày chết mẹ mày”, thấy vậy T hoảng sợ và bỏ chạy vào trong quán A Thống trốn, lúc này L rượt theo T thì bị Đ chạy đến ôm L lại và dùng tay đè nòng súng xuống sân, còn H thì giật lấy cây súng trên tay của L và đem ném cây súng gần khu vực ao tôm gần quán A Thống, thấy vậy Đ mới thả L ra. Do thấy L cầm súng đe dọa bắn T, nên Đ (là người cùng ngồi nhậu chung với T gọi điện thoại báo Công an xã), nên lực lượng Công an đến lập biên bản phạm tôi quả tang và mời T, L về Công an xã làm việc. Khi sự việc xảy ra thì trong đêm 09/11/2019 L điện cho T và nói những lời lẽ hăm dọa T như “mày làm cặc gì tao, tao mà ra ngoài thì ngày mai mày sẽ biết, mầy không yên với tao đâu”, “mai tao cho anh em tao qua nhà tìm giết mày, mày không yên với tao đâu”. Do sợ L trả thù và cho người tìm giết T, nên rất nhiều ngày T không dám đi ra ngoài đường, lúc nào cũng sợ bị L giết, nên T trình báo Công an xã An Thạnh 3 sự việc trên.

[4] Đối với lời khai nhận tội và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo L, xét thấy lời thừa nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu giữ trong hồ sơ vụ án. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thể hiện là người bình thường đủ năng lực hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo là người trên 18 tuổi, bị cáo nhận thức được việc dùng dùng súng (tự chế) và có lời nói đe dọa làm cho bị hại lúc nào cũng lo sợ bị giết và không dám đi ra đường là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Hành vi này của bị cáo cấu thành tội “Đe dọa giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 133 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, cáo trạng số: 12/CT-VKS.CLD, ngày 02 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử cũng sẽ áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, để có tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo L thấy rằng, trước khi lượng hình cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại phiên tòa bị cáo cũng đã có lời xin lỗi đến bị hại, bị cáo có người thân có công với cách mạng. Đồng thời, trong vụ án này lẽ ra sự việc không đi đến mâu thuẫn nghiêm trọng, nhưng do bị hại cũng có hành vi dùng tay đánh bị cáo 02 bạt tay. Do đó, bị hại cũng có 01 phần lỗi. Vì vậy, căn cứ vào điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng là đúng pháp luật. Trong vụ án này tuy bị cáo không có tình tiết tăng nặng, nhưng ngày 24 tháng 02 năm 2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Có ý gây thương tích”, đây sẽ là cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo có lời xin lỗi đến bị hại T, bị hại T không có yêu cầu gì, nên không đặt ra xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng của vụ án (Các biện pháp tư pháp): 01 (một) khẩu súng bắn bằng hơi tự chế, màu đen, trên thân súng có dòng chữ “AIRPORCE”, không có số hiệu, không có ký hiệu, chiều dài thân súng dài 73cm, ống ngắm dài 41cm; 01 (một) cục kim loại hình trụ (đạn nấm chì) màu xám có kích thước 0,6 x 0,4cm là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh L là người bị kếtiền án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 133; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 56 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội “Đe dọa giết người”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 09 (Chín) tháng tù, tổng hợp hình phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù của bản án số 28/2020/HSST, ngày 24 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, hình phạt chung đối với bị cáo Nguyễn Thanh L là 03 (Ba) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23 tháng 3 năm 2020.

- Về xử lý vật chứng (Các biện pháp tư pháp): Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) khẩu súng bắn bằng hơi tự chế, màu đen, trên thân súng có dòng chữ “AIRPORCE”, không có số hiệu, không có ký hiệu, chiều dài thân súng dài 73cm, ống ngắm dài 41cm; 01 (một) cục kim loại hình trụ (đạn nấm chì) màu xám có kích thước 0,6 x 0,4cm.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án xử buộc bị cáo Nguyễn Thanh L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

- Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

540
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội đe dọa giết người

Số hiệu:14/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về