Bản án 14/2020/HS-ST ngày 10/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 10/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H; sinh ngày 05/11/1980 tại tỉnh Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình; tạm trú: Tổ X, khối Y, đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1952; có vợ: Trần Thị H1, sinh năm 1982 (đã ly hôn); con: Có 01 con sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 11/11/2019 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Anh Trương Minh L; sinh năm 1993; trú tại: Thôn H1, xã H2, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị P; sinh năm 1952; địa chỉ: Tổ X, khối Y, đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Chị Đỗ Thị H2; sinh năm 1984; địa chỉ: Số X1, đường T, thôn H1, xã H2, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Phạm Hùng H3. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ, ngày 11/11/2019, tại Gara ô tô L thuộc thôn H1, xã H2, thành phố L, Nguyễn Văn H bị bắt quả tang về hành vi trộm cắp 04 chiếc xi lanh nén khí ô tô đầu kéo của anh Trương Minh L.

Tại Biên bản định giá tài sản số 222/ĐGTSTT ngày 12/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận: 04 chiếc xi lanh nén khí ô tô đầu kéo trị giá 8.000.000 đồng (tám triệu đồng).

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận: Do nghiện ma túy, không có tiền tiêu xài nên khoảng 18 giờ ngày 11/11/2019, Nguyễn Văn H một mình điều khiển xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 12T1 - 162.11 đi dọc theo Quốc lộ 1A với mục đích xem ai có tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đến Gara ô tô L thuộc thôn H1, xã H2, thành phố L, thấy cửa mở, nhưng không có ai, Nguyễn Văn H đỗ xe và đi vào bên trong, thấy có 04 chiếc xi lanh nén khí ô tô đầu kéo, Nguyễn Văn H lấy 02 chiếc đem ra chỗ để xe mô tô cho vào bao tải, khi Nguyễn Văn H vào trong Gara lấy nốt 02 chiếc còn lại thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, Nguyễn Văn H còn khai: Vào khoảng 18-19 giờ một ngày cuối tháng 10/2019 đầu tháng 11/2019, cũng tại Gara ô tô L, Nguyễn Văn H đã trộm 01 tấm sắt hình chữ nhật, kích thước 100cm x 25cm mang bán cho cửa hàng phế liệu được 400.000 đồng, số tiền có được đã tiêu xài hết.

Bị hại, anh Trương Minh L khai: Khoảng 18 giờ ngày 11/11/2019 anh bắt quả tang Nguyễn Văn H có hành vi trộm 04 chiếc xi lanh nén khí ô tô đầu kéo tại Gara tô tô của anh. Anh đã được Cơ quan điều tra trả lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo bồi thường. Trước đó Gara của anh bị mất trộm 01 tấm sắt nhưng anh không báo cơ quan chức năng giải quyết. Tại đơn xin xét xử vắng mặt anh đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị P trình bày: Chiếc xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 12T1 - 162.11 bà mua lại với chị Hoàng Thị V, chưa sang tên, việc bị cáo sử dụng xe đi trộm cắp bà không biết. Bà đã được Cơ quan điều tra trả lại xe, không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Chị Đỗ Thị H2 khai: Khoảng cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 2019 được mua 01 tấm sắt hình chữ nhật 100cm x 25cm nặng khoảng 90kg với một người đàn ông không quen biết với giá khoảng 400.000 đồng - 500.000 đồng, sau đó vài ngày chị đã bán lại cho một người không quen biết khác.

Tại Cáo trạng số 21/CT-VKS, ngày 17 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn luận tội: Ngày 11/11/2019, tại Gara ô tô Lý, bị cáo có hành vi lén lút trộm cắp tài sản là 04 chiếc xi lanh nén khí ô tô đầu kéo trị giá 8.000.000 đồng. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản; áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên không đề cập xem xét. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bao tải, xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 12T1 - 162.11 cho bà Nguyễn Thị P. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn H tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo, bị hại tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy, ngày 11/11/2019, tại Gara ô tô L thuộc thôn H1, xã H2, thành phố L, lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 04 chiếc xi lanh nén khí ô tô đầu kéo của anh Trương Minh L. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Trộm cắp tài sản. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi xâm phạm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo mới đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Để quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, là người nghiện ma túy.

[7] Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, xét thấy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh tại nơi cư trú cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại anh Trương Minh L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại; bà Nguyễn Thị P đã nhận lại xe mô tô và không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không đề cập xem xét giải quyết.

[10] Về xử lý vật chứng: Chiếc bảo tải bị cáo dùng để đựng tài sản trộm cắp, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu, tiêu hủy. Xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô hiệu Wave biển kiểm soát 12T1 - 162.11 cho bà Nguyễn Thị P.

[11] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[12] Đối với tấm sắt bị trộm cắp, khi bị mất anh Trương Minh L không trình báo cơ quan chức năng giải quyết, nay anh Trương Minh L không chứng minh được việc anh đã mua tài sản đó và tài sản không thu hồi được nên không có căn cứ định giá, điều tra, xử lý. Đối với chị Đỗ Thị H2 đã mua tấm sắt với bị cáo nhưng không biết đó là tài sản trộm cắp mà có nên không đề cập xem xét xử lý.

[13] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố Lạng Sơn về tội danh, hình phạt và các nội dung khác là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. [15] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giam 11/11/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc bao tải.

(Vật chứng nêu trên được ghi chi tiết trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/01/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HS-ST ngày 10/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về