Bản án 14/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 14/2020/HS-PT NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀTỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2019/TLPT-HS ngày 26 tháng 12 năm 2019, do có kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Lê Ngọc H, Trần Văn T1, Nguyễn Ngọc H1, Thái T2, Tạ Hồng B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Ngô Văn T, sinh ngày 18/9/1990 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn T và con bà Lê Thị T; có vợ tên Võ Thị H và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 07/3/2012, Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xét xử và xử phạt 01 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 28/3/2019; có mặt.

2. Hồ P1 (tên gọi khác: T), sinh năm 1976 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ B và con bà Hoàng Thị Q; có vợ tên Nguyễn Thị L và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại; có mặt.

3. Lê Ngọc H (tên gọi khác: N), sinh ngày 20/9/1991 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Ngọc T và con bà Lê Thị N; có vợ tên Đặng Thị Mỹ L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 12/01/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử và xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/02/2019; có mặt.

4. Trần Văn T1, sinh năm 1987 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần T và con bà Lê Thị K; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại; có mặt.

5. Nguyn Ngọc H1, sinh ngày 11/3/1994 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc T và con bà Hồ Thị Mỹ L; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại; có mặt.

6. Thái T2 (tên gọi khác: Út), sinh năm 1979 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thái H và con bà Hoàng Thị X; có vợ tên Hoàng Thị S và có 04 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 05/5/2004, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định đưa vào cơ sở giáo dục thời gian 12 tháng.

- Ngày 19/02/2014, Tòa án nhân dân huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử và xử phạt 03 tháng tù cho hưởng án treo, phạt bổ sung số tiền 3.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”.

Bị cáo tại ngoại (tạm giam ngày 19/02/2019, đến ngày 08/8/2019 thay đổi biện pháp ngăn chặn cho Bảo lĩnh); có mặt.

7. Tạ Hồng B, sinh năm1969 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Hồng Q và con bà Châu Thị B; có vợ tên Nguyễn Thị L và có 04 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 23/12/2002, Công an huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 500.000 đồng về hành vi đánh bạc. Bị cáo tại ngoại (bị bắt tạm giam ngày 19/02/2019, đến ngày 17/7/2019 thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cho Bảo lĩnh; có mặt.

(Ngoài ra trong vụ án còn có một số bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyn Hữu P và Ngô Văn T quen biết nhau rồi bàn bạc tổ chức sòng đánh bạc bằng hình thức xóc dĩa, nhằm thu tiền xâu và cho các con bạc vay tiền tại sòng bạc với lãi suất cao để thu lời. P và T thường xuyên thay đổi địa điểm để tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng; đồng thời, lựa chọn các khu vực là rừng trồng, vắng người qua lại, xa nhà dân thuộc địa bàn các xã P hoặc C, huyện P để tổ chức đánh xóc dĩa và thống nhất: Nếu sòng bạc tổ chức tại xã P thì T là người chuẩn bị chén, dĩa, bài, kéo, chăn, tấm bạt, hộp đựng tiền xâu, bình ắc quy, bóng đèn chiếu sáng, nước uống…; nếu sòng bạc tổ chức tại xã C thì P là người chuẩn bị các vật dụng như trên để phục vụ cho việc đánh bạc.

Chiu tối ngày 18/02/2019, Nguyễn Hữu P chuẩn bị các dụng cụ phục vụ cho việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc; rồi đưa số dụng cụ này cho Hồ P1 để P1 đi tìm địa điểm. P1 đã chọn khu vực trồng cây tràm, không có nhà dân, vắng người tại xã C, huyện P rồi điện thoại cho P biết địa điểm để tổ chức đánh bạc.

Khong 19 giờ cùng ngày, P điện thoại báo cho T biết địa điểm tổ chức đánh bạc. Sau đó cả hai điện thoại rủ rê, lôi kéo, thông báo địa điểm cho các con bạc, cụ thể: T gọi cho Trần Văn T1 và điều khiển xe mô tô hiệu Honda AirBlade, biển kiểm soát 75C- 236.99 chở T1 đi về Khu công nghiệp P để gặp P dẫn vào vị trí đánh bạc. T tiếp tục gọi cho Lê Ngọc H biết, H dùng xe mô tô hiệu Yamaha Yanus, biển kiểm soát 75C1-232.88 chở Nguyễn Ngọc H1 đến để làm nhiệm vụ đưa đón các con bạc và cảnh giới tại sòng bạc. Sau đó, T điện thoại thông báo cho Trần Công T2, Lê Anh T3, Tạ Hồng B…đến địa điểm P và T chọn để tham gia đánh bạc với hình thức xóc dĩa. Đồng thời, P gọi điện thoại cho Lê Khắc T5, Nguyễn Bá L thông báo địa điểm để đến đánh bạc.

Thứ tự các con bạc đến tham gia đánh bạc như sau: Lê Khắc T5 điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 74F1-200.19 chở Lê Khắc L; Nguyễn Bá L nhờ em ruột chở đến sòng bạc lúc 21 giờ 30 phút; Trần Công T2 điều khiển xe ô tô KiaCerato, biển kiểm soát 75A-096.27 đến sòng bạc lúc 22 giờ; Thái T2 và Hồ Đăng C đi bằng xe Taxi đến sòng bạc lúc 23 giờ; Lê Anh T3 điều khiển xe ô tô Huyndai Elantra, biển kiểm soát 75A-082.20; Tạ Hồng B rủ Đoàn H3 và H3 điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exiter, biển kiểm soát 75C1-144.82 chở Bảy đến sòng bạc lúc 23 giờ. Khi các con bạc đi đến địa điểm đánh bạc, tại vị trí cây cầu đang thi công thì Lê Ngọc H, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 chờ sẵn ở đó để chỉ cho các con bạc chỗ cất giấu xe rồi thay phiên nhau chở các con bạc vào nơi tổ chức sòng bạc.

Khong 22 giờ cùng ngày, khi đã có nhiều con bạc đến; Nguyễn Hữu P và Hồ P1 là người soạn các dụng cụ để tổ chức đánh bạc. Lê Khắc T5 là người dùng kéo cắt 04 bài vị từ bộ bài tú lơ khơ, rồi bỏ 04 bài vị vào bộ chén dĩa để làm cái xóc dĩa. Nguyễn Hữu P và Ngô Văn T hùn tiền để P làm cái sam cô (P bỏ ra trước 5.000.000 đồng) rồi trực tiếp đánh với các con bạc.

Quy ước đặt cược xóc dĩa là “Cửa chẵn” bên tay phải, đặt “Cửa lẻ” bên tay trái của người xóc cái với tỉ lệ thắng: đặt 1 thắng 1. Người chơi đặt “Cửa chẵn” thắng cược khi 4 bài vị là: 2 đen, 2 trắng (có 2 mặt sấp, 2 mặt ngữa) hoặc 4 đen (có 4 mặt sấp) hoặc 4 trắng (có 4 mặt ngữa); còn người chơi đặt “Cửa lẻ” thắng cược khi 4 vị bài là: 3 đen, 1 trắng (có 3 mặt sấp, 1 mặt ngữa) hoặc 3 trắng 1 đen (có 3 mặt ngữa, 1 mặt sấp).

Quy ước đặt cược sam cô là 3 đen (có 3 mặt sấp); 3 trắng (có 3 mặt ngữa); 4 đen (có 4 mặt sấp); 4 trắng (có 4 mặt ngữa). Nếu thắng cược thì thắng theo tỉ lệ: trúng 3 đen hoặc 3 trắng thì đặt 1 thắng 3,5 lần; trúng 4 đen hoặc 4 trắng thì đặt 1 thắng 10 lần và người thắng 4 đen hay 4 trắng phải bỏ xâu tương ứng 5% số tiền thắng cược (tức là đặt 100.000 đồng nếu trúng cược được 1.000.000 đồng thì đóng tiền xâu 50.000 đồng). T là người thu tiền xâu tại sòng bạc rồi bỏ vào vỏ lon sữa có dòng chữ Optimum Gold.

Trong quá trình đánh bạc, T đã cho các con bạc vay 45.000.000 đồng gồm: Tạ Hồng B vay 20.000.000 đồng, Thái T2 vay 20.000.000 đồng và Lê Khắc L vay 5.000.000 đồng để đánh bạc. Lê Ngọc H, Trần Văn T1, Nguyễn Ngọc H1 và Hồ P1 làm nhiệm vụ cảnh giới, giữ xe. T là người phục vụ tại sòng bạc và trả tiền công từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng cho các đối tượng giúp sức tổ chức đánh bạc (số tiền này T và P thống nhất lấy từ số tiền xâu thu được để trả, số tiền xâu còn lại thì T và P sẽ chia đều cho nhau).

Sòng bạc đánh xóc dĩa và sam cô vào tối ngày 18/02/2019 có hơn 10 con bạc tham gia sát phạt nhau. Mỗi ván, mỗi con bạc đặt cược từ 50.000 đồng đến 1.000.000 đồng; tổng số tiền các con bạc đặt cược từng ván từ 4.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng. Đến 01 giờ 30 phút ngày 19/02/2019, khi sòng bạc đang đánh thì bị Công an bắt quả tang.

Khi cơ quan điều tra tiến hành bắt giữ thì Ngô Văn T bỏ trốn, đến ngày 22/3/2019 ra trình diện; Hồ P1 bỏ trốn đến ngày 20/02/2019 ra trình diện; Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 bỏ trốn đến ngày 27/02/2019 thì được Cơ quan cảnh sát điều tra triệu tập đến làm việc.

* Quá trình điều tra đã xác định hành vi của nhóm tổ chức đánh bạc như sau:

- Nguyễn Hữu P cùng các đồng phạm Ngô Văn T, Hồ P1, Lê Ngọc H, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 tổ chức đánh bạc trái phép (hình thức xóc dĩa, sam cô) tại khu vực trồng cây tràm thuộc địa bàn xã C với vai trò là người chủ mưu, P là người chuẩn bị chén, dĩa, bài, kéo, chăn, tấm bạt, hộp đựng tiền xâu, bình ắc quy, bóng đèn chiếu sáng và giao cho Hồ P1 tìm chọn địa điểm bố trí sòng bạc. Trong quá trình đánh bạc, P cùng T hùn tiền làm cái sam cô để thắng thua với các con bạc tại sòng bạc.

- Ngô Văn T cùng đồng phạm với P thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc với vai trò là người điện thoại lôi kéo người khác tham gia đánh bạc, bố trí Lê Ngọc H, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 dẫn đường cho các con bạc, làm nhiệm vụ cảnh giới. Tại sòng bạc, T là người cho các con bạc vay tiền để đánh bạc (cho Tạ Hồng B vay 20.000.000 đồng (đưa 19.000.000 đồng, lấy trước tiền lãi 1.000.000 đồng); cho Thái T2 vay 20.000.000 đồng (đưa 19.000.000 đồng, lấy trước tiền lãi 1.000.000 đồng); cho Lê Khắc L vay 5.000.000 đồng (đưa 4.500.000 đồng, lấy trước tiền lãi 500.000 đồng) và hùn tiền cùng P để P làm cái sam cô. Số tiền T thu lợi bất chính trong việc cho con bạc vay tiền đánh bạc là 2.500.000 đồng.

- Hồ P1 đồng phạm trong việc tổ chức đánh bạc với vai trò là người giúp sức để lựa chọn địa điểm, trải bạt ni lông, chuẩn bị dụng cụ và làm nhiệm vụ cảnh giới tại sòng bạc.

- Lê Ngọc H, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 cùng đồng phạm trong việc tổ chức đánh bạc với vai trò là người giúp sức để dẫn đường cho các con bạc và làm nhiệm vụ cảnh giới tại sòng bạc.

* Đối với hành vi đánh bạc của các con bạc như sau:

- Lê Khắc T5 mang theo 4.700.000 đồng để đánh bạc, Thuần là người trực tiếp làm cái xóc dĩa để thắng thua với các con bạc từ khi sòng bạc đánh đến khi bị bắt quả tang. Thuần đánh thua 3.900.000 đồng, tạm giữ trong người của Thuần số tiền còn lại 800.000 đồng.

- Nguyễn Hữu P và Ngô Văn T tham gia đánh bạc với vai trò làm cái sam cô để thắng thua với các con bạc, số tiền là 5.000.000 đồng (số tiền này do P bỏ ra). Khi bị bắt quả tang, Nguyễn Hữu P và Ngô Văn T thua bạc khoảng 1.000.000 đồng, số tiền còn lại P vất tại hiện trường, còn T bỏ trốn.

- Thái T2 đem theo 4.150.000 đồng để đánh bạc, tham gia đặt cược 10 - 12 lượt, mỗi lượt đặt từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng thì thua hết tiền; vay của T 20.000.000 đồng (chỉ nhận 19.000.000 đồng) để tiếp tục đánh bạc, tham gia đặt cược thêm 3 lượt, kết quả thua cược thêm 1.000.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, tạm giữ trong người của Từ số tiền còn lại 48.600.000 đồng (trong đó 30.600.000 đồng là tiền Từ lấy giữa sòng bạc giấu vào người và 18.000.000 đồng là số tiền còn lại).

- Tạ Hồng B mang theo 400.000 đồng để đánh bạc, tham gia đặt cược 4 lượt, mỗi lượt đặt 100.000 đồng đều thua; vay của T 20.000.000 đồng (chỉ nhận 19.000.000 đồng) để tiếp tục đánh bạc, tham gia đặt cược thêm nhiều lượt, mỗi lượt đặt từ 100.000 đồng đến 400.000 đồng và thắng cược 10.200.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, tạm giữ trong người của Bảy số tiền 29.600.000 đồng. - Lê Khắc L đem theo 1.750.000 đồng để đánh bạc, tham gia đặt cược hơn 10 lượt, mỗi lượt đặt từ 200.000 đồng thua hết tiền; vay của T 5.000.000 đồng (chỉ nhận 4.500.000 đồng) để tiếp tục đánh bạc. Sau đó thắng cược có trả bớt cho T 2.000.000 đồng, số tiền còn lại tiếp tục đánh bạc và thua hết.

- Hồ Đăng C đem theo 6.000.000 đồng để đánh bạc, tham gia đặt cược 3 lượt, mỗi lượt đặt từ 50.000 đồng đến 150.000 đồng, kết quả hòa. Khi bị bắt quả tang, tạm giữ trong người của Cương số tiền 36.000.000 đồng (trong đó có 30.000.000 đồng là tiền của mẹ ruột đưa để trả tiền viện phí không liên quan đến việc đánh bạc).

- Lê Anh T3 đem theo 1.700.000 đồng để đánh bạc, tham gia đặt cược nhiều lượt, mỗi lượt đặt từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng, kết quả thua 1.300.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, Tuấn vứt số tiền còn lại ra giữa sòng bạc.

- Nguyễn Bá L đem theo 960.000 đồng để đánh bạc, tham gia đặt cược 10 lượt, mỗi lượt đặt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, kết quả thua cược 900.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, Lộc vứt số tiền còn lại ra giữa sòng bạc.

- Đoàn H3 đem theo 570.000 đồng để đánh bạc, tham gia đặt cược 3 lượt, mỗi lượt đặt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, kết quả thua cược 500.000 đồng. Khi bắt quả tang, tạm giữ trong người của H3 số tiền còn lại 70.000 đồng.

- Trần Công T2 đem theo 500.000 đồng để đánh bạc, tham gia đặt cược 3 lượt, mỗi lượt đặt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, kết quả đều thua.

Qua lời khai của các con bạc và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định: Tiền mà các con bạc dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại sòng bạc là 12.100.000 đồng; tiền thu ở khu vực xung quanh chiếu bạc do các đối tượng vất lại, cất dấu là 2.000.000 đồng; tiền thu trong vỏ lon sữa đựng tiền xâu là 7.750.000 đồng; tiền thu giữ trong người các con bạc được xác định rõ là tiền đã được hoặc sẽ được dùng để đánh bạc là 85.130.000 đồng. Như vậy, trong vụ án này các bị cáo thực hiện hành vi cùng tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc dĩa và samcô để thắng thua trực tiếp với nhau với số tiền là 106.980.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

Tuyên bố:

Các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Lê Ngọc H, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Các bị cáo Ngô Văn T, Thái T2, Tạ Hồng B phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 (đối với tội Đánh bạc) của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Ngô Văn T 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”. Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, tổng hợp hình phạt chung của hai tội, buộc bị cáo Ngô Văn T phải chấp hành hình phạt là 02 (hai) năm 05 (năm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 28/3/2019. Phạt bổ sung bị cáo Ngô Văn T 40.000.000 đồng về tội “Tổ chức đánh bạc” và 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Tổng cộng là 60.000.000 đồng.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Hồ P1 10 (mười) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lê Ngọc H 01 (một) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 19/02/2019. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Văn T1 10 (mười) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1 Điều 322; các điểm s, t khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H1 10 (mười) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Thái T2 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 19/02/2019 đến ngày 08/8/2019. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Tạ Hồng B 10 (mười) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 19/02/2019 đến ngày 17/7/2019. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 15.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Hữu P, Lê Khắc T5, Lê Khắc L, Hồ Đăng C, Lê Anh T3, Nguyễn Bá L, Trần Công T2, Đoàn H3 nhưng các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị. Bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vào ngày 18, 19, 21, 25, 27/11/2019 các bị cáo Hồ P1, Lê Ngọc H, Ngô Văn T, Tạ Hồng B, Nguyễn Ngọc H1, Trần Văn T1, Thái T2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ti phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lê Ngọc H tự nguyện rút đơn kháng cáo.

Các bị cáo Hồ P1, Ngô Văn T, Tạ Hồng B, Nguyễn Ngọc H1, Trần Văn T1, Thái T2 trình bày giữ nguyên đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Ngọc H tự nguyện rút đơn kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 342, Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Ngọc H. Gia đình các bị cáo Thái T2, Tạ Hồng B cung cấp chứng cứ là đã nộp xong số tiền phạt bổ sung và án phí HSST; gia đình bị cáo Hồ P1 đã nộp 10.000.000đ tiền phạt bổ sung và 1.300.000đ tiền thu lợi bất chính.

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá, nhận định vai trò thực hiện tội phạm của từng bị cáo và xét xử đối với các bị cáo là đúng tội. Về mức hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho từng bị cáo và xử phạt Ngô Văn T 02 năm 05 tháng tù về hai tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”; bị cáo Hồ P1, Trần Văn T1 mỗi bị cáo 10 tháng tù về tội “Đánh bạc” là thỏa đáng. Do vậy, đề nghị không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với các bị cáo T, P1, T1. Đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc H1, Tạ Hồng B, Thái T2 vai trò thực hiện tội phạm có mức độ, thấp hơn các bị cáo khác. Các bị cáo Từ, Bảy có tình tiết mới là đã tự nguyện nộp xong tiền án phí HSST và tiền phạt bổ sung. Do vậy, đề nghị chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm và giảm hình phạt cho các bị cáo Nguyễn Ngọc H1, Tạ Hồng B, Thái T2.

Các bị cáo Hồ P1, Ngô Văn T, Tạ Hồng B, Nguyễn Ngọc H1, Trần Văn T1, Thái T2 đều trình bày: Mong Hội đồng xét xử xem xét và giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Vào ngày 18, 19, 21, 25, 27/11/2019 các bị cáo Hồ P1, Lê Ngọc H, Ngô Văn T, Trần Hồng B, Nguyễn Ngọc H1, Trần Văn T1, Thái T2 kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm55/2019/HS-ST ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Như vậy, kháng cáo của các bị cáo là trong hạn luật định; do vậy, Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Ngọc H tự nguyện rút đơn kháng cáo. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 342, Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Ngọc H. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Lê Ngọc H.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm hôm nay, các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Trần Văn T1, Nguyễn Ngọc H1, Thái T2, Tạ Hồng B nhận tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Các bị cáo Nguyễn Hữu P và Ngô Văn T là những người khởi xướng, tổ chức, lên kế hoạch, chuẩn bị vật dụng để tổ chức đánh bạc. Tham gia đồng phạm cùng bị cáo P, T có các bị cáo Hồ P1, Trần Văn T1, Lê Ngọc H, Nguyễn Ngọc H1 làm nhiệm vụ cảnh giới, tiếp đón, dẫn đường cho các con bạc là Lê Khắc T5, Thái T2, Tạ Hồng B, Lê Anh T3, Hồ Đăng C, Lê Khắc L, Nguyễn Bá L, Trần Công T2, Đoàn H3 vào đánh bạc cùng với Nguyễn Hữu P, Ngô Văn T tại xã C, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế thì bị bắt quả tang lúc 01 giờ 30 phút ngày 19/02/2019. Tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc bị thu giữ là 106.980.000đ.

Vai trò thực hiện tội phạm của từng bị cáo thể hiện: Các bị cáo Nguyễn Hữu P và Ngô Văn T là người chỉ huy tổ chức, thuê người cảnh giới và dẫn đường; cùng góp tiền để làm cái sam cô và tham gia đánh bạc. P là người chuẩn bị địa điểm và các dụng cụ phục vụ đánh bạc; T điện thoại lôi kéo người đến đánh bạc, thu tiền xâu và cho con bạc vay tiền để đánh bạc. Do vậy, bị cáo P và T đóng vai trò chính. Các bị cáo Hồ P1, Lê Ngọc H, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 là những đồng phạm giúp sức tích cực cho P và T tổ chức đánh bạc. Bị cáo Hồ P1 là người giúp P tìm địa điểm tổ chức đánh bạc, chuẩn bị công cụ phạm tội; các bị cáo Lê Ngọc H, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 dẫn đường cho các con bạc, cảnh giới, canh gác sòng bạc. Các bị cáo Thái T2 và Tạ Hồng B là những người tham gia đánh bạc. Bị cáo Từ, Bảy đánh thua hết số tiền mang theo (Từ mang 4.150.000 đồng, Bảy mang 400.000 đồng) thì mỗi bị cáo vay của T 20.000.000 đồng để tiếp tục đánh bạc.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Ngô Văn T, Thái T2, Tạ Hồng B về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội. Về mức hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá về tính chất, mức độ, nhân thân, vai trò thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo và áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ hình phạt mà các bị cáo được hưởng. Xử phạt bị cáo Ngô Văn T 02 (hai) năm 05 (năm) tháng tù về hai tội; bị cáo Hồ P1 10 (mười) tháng tù; bị cáo Trần Văn T1 10 (mười) tháng tù; bị cáo Nguyễn Ngọc H1 10 (mười) tháng tù; bị cáo Thái T2 01 (một) năm tù; bị cáo Tạ Hồng B 10 (mười) tháng tù là có căn cứ, thỏa đáng.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, gia đình các bị cáo Thái T2, Tạ Hồng B cung cấp chứng cứ là đã nộp xong số tiền phạt bổ sung, án phí HSST (bị cáo Bảy nộp 15.200.000 đồng, bị cáo Từ nộp 20.200.000 đồng) và bị cáo Hồ P1 nộp 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung, 1.300.000 đồng tiền thu lợi bất chính (theo biên lai thu số AA2011/005673 ngày 14/02/2020, số AA/2011/005675 ngày 17/02/2020, số AA/2011/005664 ngày 04/02/2020, số AA/2011/005674 ngày 17/02/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế), đây được coi là tình tiết mới. Tuy nhiên, các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Trần Văn T1, Nguyễn Ngọc H1, Thái T2, Tạ Hồng B phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng; mức án cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo là không nặng. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Trần Văn T1, Nguyễn Ngọc H1, Thái T2, Tạ Hồng B. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đi với bị cáo Hồ P1, bản án sơ thẩm quyết định không truy thu tiền thu lợi bất chính đối với bị cáo. Do vậy, trả lại 1.300.000đ gia đình bị cáo nộp sau khi xét xử sơ thẩm tại biên lai thu số AA/2011/005664 ngày 04/02/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Trần Văn T1, Nguyễn Ngọc H1, Thái T2, Tạ Hồng B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ. Bị cáo Lê Ngọc H không phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 342, Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Ngọc H. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Lê Ngọc H.

2. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Trần Văn T1, Nguyễn Ngọc H1, Thái T2, Tạ Hồng B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

3. Tuyên bố: Các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Trần Văn T1 và Nguyễn Ngọc H1 phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; các bị cáo Ngô Văn T, Thái T2, Tạ Hồng B phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 (đối với tội Đánh bạc) của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Ngô Văn T 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”.

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt chung của hai tội, buộc bị cáo Ngô Văn T phải chấp hành hình phạt là 02 (hai) năm 05 (năm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 28/3/2019.

Phạt bổ sung bị cáo Ngô Văn T 40.000.000 đồng về tội Tổ chức đánh bạc và 20.000.000 đồng về tội Đánh bạc. Tổng cộng là 60.000.000 đồng.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Hồ P1 10 (mười) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 đồng.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1, khoản 3 Điều 322; các điểm s, t khoản 1, Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Văn T1 10 (mười) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Áp dụng các điểm a, d khoản 1 Điều 322; các điểm s, t khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H1 10 (mười) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Thái T2 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 19/02/2019 đến ngày 08/8/2019.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Tạ Hồng B 10 (mười) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 19/02/2019 đến ngày 17/7/2019.

Trả lại cho bị cáo Hồ P1 số tiền 1.300.000đ gia đình bị cáo nộp tại biên lai thu số AA/2011/005664 ngày 04/02/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Ngô Văn T, Hồ P1, Trần Văn T1, Nguyễn Ngọc H1, Thái T2, Tạ Hồng B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ. Bị cáo Lê Ngọc H không phải chịu (án phí HSST bị cáo Thái T2, Tạ Hồng B đã nộp xong).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

Số hiệu:14/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về