Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 338/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Đ, sinh năm 1989; Địa chỉ thường trú: Thôn T, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Địa chỉ tạm trú: Khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Đinh Văn U, sinh năm 1990; Địa chỉ thường trú: Thôn T, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Địa chỉ tạm trú: Phòng số 2, căn số 5, Lốc nhà 46 căn, đường N11, Khu phố 3, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 28/10/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Thị Đ trình bày:

Chị Hoàng Thị Đ và anh Đinh Văn U tự nguyện tìm hiểu nhau, kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn vào ngày 27/4/2010. Thời gian đầu, vợ chồng sống với nhau hạnh phúc nhưng từ khi chị Đ sinh cháu Đinh Thị Hoàng N thì vợ chồng bắt đầu xảy ra nhiều mâu thuẫn do anh U có mối quan hệ ngoài hôn nhân, không lo làm ăn luôn kiếm cớ gây chuyện rồi đánh vợ. Vì thương con, chị Đ đã tha thứ và khuyên anh U thay đổi để vợ chồng cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng anh U vẫn không thay đổi. Khoảng 02 năm nay, vợ chồng chị đã sống ly thân. Nhận thấy, tình cảm dành cho anh U không còn nên chị Đ yêu cầu được ly hôn với anh U.

Về con chung: Chị Đ và anh U có một con chung là cháu Đinh Thị Hoàng N, sinh ngày 18/8/2013. Chị Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh U cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kèm theo ý kiến, yêu cầu của mình, nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu, chứng cứ: CMND, sổ hộ khẩu của chị Đ (bản sao chứng thực); Đơn xác nhận tạm trú (bản chính); Giấy chứng nhận kết hôn (bản sao chứng thực); Giấy khai sinh của cháu N (bản sao chứng thực).

* Đối với bị đơn anh Đinh Văn U: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và các giấy triệu tập. Tuy nhiên, bị đơn không đến Tòa án tham gia tố tụng, không gửi văn bản trình bày ý kiến liên quan đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố Tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, 72, 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến và yêu cầu khắc phục gì thêm về tố tụng. Về mặt nội dung: căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa chị Đ và anh U đã trầm trọng, không thể hàn gắn làm cho mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung, nhận thấy cháu N hiện đang sống chung với chị Đ, và anh U không có ý kiến về con chung nên việc chị Đ yêu cầu nuôi con chung là có cơ sở theo Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Chị Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định, [1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Hoàng Thị Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Đinh Văn U đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đ và anh U kết hôn và có đăng ký kết hôn tại xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn vào ngày 27/4/2010 theo đúng quy định về đăng ký kết hôn tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Nguyên đơn chị Đ cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do anh U có mối quan hệ ngoài hôn nhân nên không lo làm ăn, kiếm cớ gây chuyện rồi đánh vợ. Chị Đ đã nhiều lần khuyên anh U nhưng không có kết quả, vợ chồng chị đã sống ly thân 02 năm. Đến nay, tình cảm của chị dành cho anh U không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh U.

Xét thấy: Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, góp phần vào sự phát triển chung xã hội. Để đạt được mục đích này, vợ chồng phải chung thủy, yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau về mọi mặt. Trong quá trình giải quyết vụ án, qua xác minh tại địa phương được biết hiện chị Đ và anh U không còn sống chung với nhau. Về phía bị đơn anh Đinh Văn U đã được triệu tập nhiều lần đến làm việc nhưng anh U không đến và cũng không có bất kỳ ý kiến phản hồi nào đối với yêu cầu của chị Đ, chứng tỏ anh U không có ý muốn hàn gắn gia đình. Xét tình trạng mâu thuẫn giữa chị Đ và anh U đã đến mức trầm trọng, vợ chồng chị Đ đã sống ly thân nhau 02 năm, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc chị Đ yêu cầu được ly hôn với anh U là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Đ và anh U có một con chung là cháu Đinh Thị Hoàng N, sinh ngày 18/8/2013. Chị Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Nhận thấy, hiện cháu N còn nhỏ và đang sống ổn định cùng chị Đ, về phía anh U không có ý kiến gì về con chung, do đó giao cháu N cho chị Đ tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là chính đáng và phù hợp quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[6] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đ phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 203, Khoản 1 Điều 227, 228, 238, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị Đ đối với bị đơn anh Đinh Văn U về việc xin ly hôn và nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Đ được ly hôn với anh Đinh Văn U.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, giấy chứng nhận kết hôn số 24, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn cấp cho anh Đinh Văn U và chị Hoàng Thị Đ ngày vào ngày 27/4/2010 không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Đinh Thị Hoàng N, sinh ngày 18/8/2013 cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đ không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại thăm nom con chung mà không ai có quyền cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng quyền thăm nom con để gây khó khăn, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con của người trực tiếp nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi dưỡng con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung đối với người không trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định tại Khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Vì quyền và lợi ích hợp pháp của con chung là cháu Đinh Thị Hoàng N, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Hoàng Thị Đ phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016-0041207 ngày 18/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về