Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 120/2020/TLST–HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2020 về việc Ly hôn và tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1979; địa chỉ: khu phố C, thị trấn L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1978; địa chỉ: khu phố C, thị trấn L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 12-6-2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lê Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Bà Lê Thị H chung sống với ông T từ năm 2002, hôn nhân có tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa vào năm 2002 theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 16, Quyển số 01, ngày 20- 10-2002. Quá trình chung sống, vợ chồng có thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do mâu thuẫn về tình cảm, kinh tế, bạo lực gia đình, ông T thường hay uống rượu, đánh đập bà H. Hiện tình cảm vợ chồng không còn, bà H yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có ba con chung là cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 13-8-2003 và Nguyễn Văn C, sinh ngày 27-5-2006, Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 13-5-2015. Khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 13-5-2015 và đồng ý giao các cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 13-8-2003 và Nguyễn Văn C, sinh ngày 27-5- 2006 cho ông T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng cho con và bà H không phải cấp dưỡng cho con.

Về chia tài sản chung, nợ chung: bà H không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 12-6-2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn T thống nhất với lời trình bày của bà H về hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Trước yêu cầu xin ly hôn của vợ là bà H, ông T không đồng ý ly hôn với bà H vì ông T không muốn các con phải sống thiếu cha mẹ, giữa vợ chồng tuy có mâu thuẫn, cãi vả với nhau về vấn đề kinh tế khó khăn, ông T cũng có đánh bà H khi nóng giận.

Về con chung: Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì ông T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 13-8- 2003 và Nguyễn Văn C, sinh ngày 27-5-2006, Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 13-5- 2015, không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Hiện ông T là công nhân cạo mủ cao su, thu nhập hàng tháng vào khoảng 6.000.000 đồng đến 7.000.000 triệu đồng nên có đủ điều kiện nuôi các con.

Về chia tài sản chung, nợ chung: ông T không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định về thẩm quyền thụ lý đúng quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc xác định tư cách tham gia tố tụng đúng quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ đúng quy định tại các Điều 95 đến Điều 98 Bộ luật Tố tụng dân sự. Trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát và cho đương sự đúng quy định tại Điều 195, 196 Bộ luật Tố tụng dân sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán thực hiện đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 63, 239, 243, 249, 258, 260 Bộ luật Tố tụng dân sự, Thư ký đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 51, 237 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn T trong quá trình chung sống đã có phát sinh mâu thuẫn, đã xảy ra bạo lực gia đình, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhận định:

[1] Về tố tụng: yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Bị đơn là ông Nguyễn Văn T có nơi cư trú tại khu phố C, thị trấn L, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn là ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt là chưa thực hiện đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: bà Lê Thị H chung sống với ông Nguyễn Văn T từ năm 2002, hôn nhân có tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện Tr, tỉnh Thanh Hóa theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 16, Quyển số 01, ngày 20-10-2002 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do vấn đề tình cảm, kinh tế và các đương sự có thừa nhận có hành vi bạo lực gia đình, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc (theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 08-5-2020 của TAND huyện Bàu Bàng tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện Bàu Bàng). Do đó, có cơ sở xác định: bà H và ông T không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; không còn cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, vợ chồng có hành vi bạo lực gia đình, đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Bà H yêu cầu ly hôn với ông T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: bà H và ông T có ba con chung là các cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 13-8-2003 và Nguyễn Văn C, sinh ngày 27-5-2006, Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 13-5-2015. Khi ly hôn, bà H và ông T đều yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 13-5-2015, không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Bà H và ông T thống nhất giao các cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 13-8-2003 và Nguyễn Văn C, sinh ngày 27-5-2006 cho ông T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và các cháu Th, cháu C cũng có nguyện vọng được chung sống với ông T (theo bản tự khai tại bút lục 34, 35). Xét, cháu Đ hiện do bà H chăm sóc, nuôi dưỡng, bà H có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con, cháu Đ hiện còn nhỏ cần sự chăm sóc nuôi dưỡng của người mẹ và ông T đang trực tiếp nuôi dưỡng các cháu Th, C nên xét giao cháu Đ cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ giao các cháu Nguyễn Văn Th và Nguyễn Văn C cho ông T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Hoàng Đ cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, không ai yêu cầu cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết theo quy định tại các Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về chia tài sản chung, nợ chung: các đương sự không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: nguyên đơn bà Lê Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[6] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khon 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị H đối với bị đơn ông Nguyễn Văn T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

- Về hôn nhân: cho ly hôn giữa bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn T.

- Về con chung: Giao các cháu Nguyễn Văn Th, sinh ngày 13-8-2003 và cháu Nguyễn Văn C, sinh ngày 27-5-2006 cho ông Nguyễn Văn T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 13-5-2015 cho bà Lê Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Văn T không ai yêu cầu cấp dưỡng cho con.

Người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về chia tài sản chung, nợ chung: các đương sự không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung nên Tòa án không giải quyết.

2. Về án phí: bà Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà Lê Thị H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0038786 ngày 04-5-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng.

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:14/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về