TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 14/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 25 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 67/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2020/QĐST-HNGĐ ngày ngày 03 tháng 08 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị P, sinh năm 1993 ; Địa chỉ: Thôn 6, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình.
- Bị đơn: Anh Trần Ngọc H, sinh năm 1991; Địa chỉ: Số nhà 17, ngách 8/122, đường N, phố Đ, phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
(Chị Phượng có mặt; anh Hưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện,bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Vũ Thị P trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Ngọc H kết hôn với nhau trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 26/04/2017 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ đẻ anh Hưng ở số nhà 17, ngách 8/122, đường N, phố Đ, phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình cho đến khi sinh con đầu lòng thì hai vợ chồng dọn về ở nhà bố mẹ đẻ của chị tại thôn 6, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vợ chồng hạnh phúc được khoảng hơn 2 năm, sau đó phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không chịu tu trí làm ăn, chơi bời lô đề, cờ bạc, không có trách nhiệm với vợ con. Vợ chồng đã sống ly thân từ lâu không còn quan tâm gì đến nhau, chị đã chuyển hộ khẩu của hai mẹ con về nhà bố mẹ đẻ tại thôn 6, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình và anh H cũng không quan tâm hay ý kiến gì. Nay, chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Ngọc H.
Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Trần Quốc B, sinh ngày 20/8/2017, hiện nay cháu ở với chị. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, chị đề nghị Tòa án cho chị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu B.
Về cấp dưỡng tiền nuôi con chung chị P không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, công nợ chung: Chị P xác định vợ chồng chị không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
- Đối với anh Trần Ngọc H: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã ra thông báo và gửi thông báo thụ lý vụ án cho anh Hưng theo quy định tại điều 196 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại biên bản làm việc ngày 24/6/2020, bà Hoàng Thị T là mẹ đẻ anh H cho biết hiện tại anh Trần Ngọc H vẫn sinh sống tại số nhà 17, ngách 8/122, đường N, phố Đ, phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình cùng với bà và thời gian gần đây anh H làm công việc phụ xe bắc nam nên thỉnh thoảng mới về nhà, chị P đã cho con về nhà ngoại ở từ khi sinh cháu B, chỉ lễ tết mới cho về thăm bà. Các văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân thành phố N bà đã nhận và gọi điện thông báo cho anh H biết nhưng anh H chỉ bảo biết vậy; anh H đã biết việc chị Phượng xin ly hôn và đồng ý ly hôn nhưng không đến Tòa án làm việc.
Tại phiên tòa hôm nay, chị Vũ Thị P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Ngọc H vì mâu thuẫn giữa chị và anh H trầm trọng, anh chị sống ly thân đã lâu, vợ chồng không còn tình cảm và không quan tâm đến nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được; về con chung chị xin được nuôi cháu Bảo đến khi cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập được cuộc sống. Anh H không phải có trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị; về tài sản chung, công nợ chung: Chị P và anh H không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn là chị Vũ Thị P có đơn khởi kiện về việc ly hôn, anh Trần Ngọc H là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo thụ lý vụ án, nhưng anh H không đến Tòa theo giấy triệu tập là chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; không nộp bản tự khai, không có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án. Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83,84 luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị P. Xử ly hôn giữa chị Vũ Thị P và anh Trần Ngọc H; Giao cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Quốc B, sinh ngày 20/8/2017cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi trưởng thành, tự lập được cuộc sống; Anh H không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo yêu cầu của chị Vũ Thị P.
Chị Phượng phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xét thấy:
[1] Về tố tụng:
- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Vũ Thị P khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Trần Ngọc H có địa chỉ: số nhà 17, ngách 8/122, đường N, phố Đ, phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về sự vắng mặt của đương sự: Anh Trần Ngọc H đã được Tòa án nhân dân thành phố N triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dụng khởi kiện:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị P và anh Trần Ngọc H kết hôn với nhau trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 26/04/2017 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
- Về yêu cầu khởi kiện: Tại phiên tòa chị Phượng xác định sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng hơn 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không chịu tu trí làm ăn chơi bời lô đề, cờ bạc, không có trách nhiệm với vợ con, anh H cầm cố cả xe ô tô của gia đình để lấy tiền chơi bời cá nhân, sau khi sinh con chị P phải dọn về nhà mẹ đẻ để ở và hiện nay chị đã chuyển hộ khẩu của hai mẹ con về nhà bố mẹ đẻ tại thôn 6, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình và anh H cũng không quan tâm hay ý kiến gì. Vợ chồng đã sống ly thân từ lâu không còn quan tâm gì đến nhau; quá trình giải quyết vụ án anh H không có mặt tại Tòa án và không thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị Phượng. Tòa án nhân dân thành phố N đã tiến hành làm việc với chính quyền địa phương nơi chị P anh H cư trú về tình trạng hôn nhân cũng như mâu thuẫn vợ chồng giữa anh chị, kết quả xác định: Vợ chồng anh H và chị P có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số nhà 17, ngách 8/122, đường N, phố Đ, phường B, thành phố N. Tuy nhiên, hai vợ chồng không thường xuyên sinh sống tại địa chỉ trên nên tình trạng hôn nhân hiện nay của vợ chồng anh chị ấy như nào chính quyền địa phương không rõ, anh H là người ăn chơi, không chịu tu trí làm ăn. Xét yêu cầu khởi kiện của chị P phù hợp với kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố N và biên bản làm việc với gia đình anh H. Như vậy, có đủ chứng cứ để khẳng định: Tình cảm vợ chồng và đời sống chung giữa chị P và anh H không còn, quan hệ hôn nhân chỉ là hình thức, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị P là phù hợp với thực trạng diễn biến quan hệ hôn nhân giữa họ và phù hợp với pháp luật được quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
- Về con chung: Chị P và anh H có một con chung là cháu Trần Quốc B, sinh ngày 20/8/2017. Hiện nay cháu đang ở với mẹ, chị P đề nghị Hội đồng xét xử giao cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu B do cháu còn nhỏ. Xét về điều kiện nuôi con, chị P có đủ điều kiện về mọi mặt để nuôi dưỡng, chăm sóc cháu B. Mặt khác, anh H không quan tâm, hỏi han, chu cấp tiền nuôi con. Do vậy, cần giao cho chị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cháu B đến khi cháu đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
- Về cấp dưỡng tiền nuôi con chung: Hiện tại anh H thường xuyên đi làm xa, không xác định được mức lương chính hàng tháng, mặt khác chị P không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con; do đó, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận sự tự nguyện của chị P.
- Về tài sản chung, công nợ chung: chị P xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3]. Về án phí: Chị P phải chịu theo quy định của pháp luật.
[4]. Quyền kháng cáo các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị P về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với anh Trần Ngọc H.
1.Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Vũ Thị P và anh Trần Ngọc H.
2. Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Quốc B, sinh ngày 20 tháng 08 năm 2017 cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi.
Anh Trần Ngọc H không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Trần Ngọc H có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung. Không ai được cản trở anh H thực hiện quyền này. Khi cần các bên có thể thay đổi việc nuôi con chung.
3. Về tài sản chung và công nợ chung: không có;
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Vũ Thị P phải chịu là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị Phượng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N theo biên lai thu số AA/2018/0001479 ngày 28/4/2020.
5. Quyền kháng cáo: Chị P có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 14/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 14/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về